Lợi ích kinh tế khi thực thi các cam kết về bảo vệ môi trường theo các Hiệp định tự do thế hệ mới
Tại Hội thảo "Đánh giá việc thực thi cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP tại Việt Nam", GS. TS Hoàng Xuân Cơ có bài tham luận với chủ đề "Lợi ích kinh tế khi thực thi các cam kết về bảo vệ môi trường theo các Hiệp định tự do thế hệ mới".
1. Mở đầu
Trong thời đại Thế giới phẳng, Thế giới hội nhập, Thế giới gần gũi,… thì mối quan hệ quốc tế có ý nghĩa rất lớn trong quá trình phát triển của một quốc gia. Mối quan hệ hiện nay khá phong phú về loại hình, về lĩnh vực và về mức độ quan hệ. Về chính trị, có những mối quan hệ ở mức rất cao như Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa các nước xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng, toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi, từ thương mại, đầu tư cho tới công nghệ, năng lượng... và có sự tin tưởng lẫn nhau ở cấp chiến lược. Việt Nam thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với các nước được coi là có tầm quan trọng lớn đối với an ninh, thịnh vượng và vị thế quốc tế của mình. Tính đến 2023, Việt Nam đã xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 6 quốc gia bao gồm Trung Quốc (năm 2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022) và Mỹ (2023).
Như vậy, quan hệ đối tác của Việt Nam đã mở rộng rất nhiều so với trước thời kỳ và chúng ta đã thu được rất nhiều từ quá trình hợp tác sâu rộng với các quốc gia, các tổ chức khu vực và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả của các hợp tác này chưa được cụ thể, chưa làm rõ những gì chúng ta đã thu được, những gì chúng ta vẫn để “tuột tay” khi tham gia vào các hiệp định, đối tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Vì vậy, phải dần dần làm rõ những gì chúng ta phải làm và những gì chúng ta thu được khi hội nhập quốc tế. Đây là công việc khá khó khăn nhưng nếu làm tốt chúng ta sẽ hiểu, chủ động tham gia và sẽ có được kết quả tốt hơn nữa.
Ngày nay, đang có nhiều Hiệp định tự do thế hệ mới liên quan tới nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT) được thể hiện trong các cam kết đi kèm. Vì vậy cần phải làm rõ nội hàm những cam kết này và phải tuân thủ những ràng buộc cụ thể của nó để được hưởng những thuận lợi trong phát triển của quốc gia.
Bài viết ngắn này chỉ nhằm nêu khả năng tính toán lợi ích kinh tế có thể thu được khi tham gia các hiệp định, công ước đi kèm những cam kết BVMT mà Việt Nam phải tuân thủ.
2. Nội hàm của các tổ chức, hiệp định, công ước, cam kết,…và quá trình đàm phán, ký kết tham gia.
Mỗi một tổ chức, một liên minh, một nhóm quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những nội hàm, những quy định rất rõ rang về điều kiện tham gia, những lợi ích có thể thu được khi tham gia thông qua các hiệp định, công ước, cam kết cụ thể, trong đó có cam kết về BVMT. Xin lấy một trường hợp mà Việt Nam đã đàm phán thành công để gia nhập tổ chức quan trọng, đó là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 7/11/2006, lễ kết nạp Việt Nam gia nhập WTO được tổ chức tại trụ sở WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Sau đó, kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Những khó khăn trong lập hồ sơ, đàm phán (cả song phương, đa phương) đã được những người trong cuộc như Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương Mại Trương Đình Tuyển kể lại trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO) là tổ chức quốc tế toàn cầu duy nhất xử lý các quy tắc thương mại giữa các quốc gia. Trọng tâm của nó là các hiệp định của WTO, được đàm phán và ký kết bởi phần lớn các quốc gia thương mại trên thế giới và được phê chuẩn tại quốc hội của họ. Mục tiêu là đảm bảo hoạt động thương mại diễn ra suôn sẻ, có thể dự đoán trước và tự do nhất có thể. Để gia nhập WTO, chính phủ phải điều chỉnh các chính sách kinh tế và thương mại của mình phù hợp với các quy định của WTO và đàm phán các điều khoản gia nhập với các thành viên WTO.
Để có thể tham gia vào tổ chức này thì các quốc gia phải thỏa mãn các điều kiện như: độc lập về chính sách thương mại quốc tế, công khai rõ ràng các số liệu kinh tế, quốc gia đó phải có nền kinh tế thị trường và có nguyện vọng tham gia trở thành viên và có khả năng đáp ứng yêu cầu trong việc thực hiện các hiệp định trong WTO.
Như vậy, điều kiện gia nhập WTO có vẻ không mấy khó khăn nhưng riêng điều kiện có Nền kinh tế thị trường không dễ được các quốc gia khác công nhận theo ý kiến riêng của họ. Cho đến nay, Việt Nam vẫn có những quốc gia và tổ chức quốc tế chưa công nhận có Nền kinh tế thị trường như Mỹ, EU chẳng hạn. Đây là điều chúng ta phải xem xét lại, cả về yêu cầu, đánh giá không đúng về Việt Nam, cả về thực tế Việt Nam chưa đáp ứng, cần thêm thời gian để điều chỉnh.
Hiện tại do đã có thời gian dài nghiên cứu nội hàm các tổ chức quốc tế, các công ước, hiệp định,…nên Việt Nam đã có kinh nghiệp trong lập hồ sơ và đàm phán để tham gia và thực tế đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế.
3. Lợi ích kinh tế khi tham gia các Hiệp định tự do thế hệ mới, khi thực hiện cam kết BVMT đi kèm.
Trong một bài viết đăng trên báo điện tử của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ngày 13/07/2020 đã khái quát hóa nhiều khía cạnh về thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới”, về một số FTA Việt Nam mới tham gia, đặc biệt là cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…có liên quan. Trong số FTA thế hệ mới, Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) - EVFTA, cụ thể:
- Hiệp định CPTPP: Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 65-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng 5-10 năm.
- Hiệp định EVFTA: Các nội dung chính của Hiệp định, bao gồm: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững; các vấn đề pháp lý, hợp tác và xây dựng năng lực.
Như vậy, trong các hiệp định này, vấn đề mức thuế nhập khẩu sẽ được thảo luận, thỏa thuận dựa trên nhiều tiêu chí, điều kiện, trong đó có điều kiện đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.
Thường thì các nước, các tổ chức nhập khẩu hàng hóa của nước khác đều có tiêu chuẩn riêng, gần như là áp đặt, trong đó có tiêu chí về nguồn gốc, xuất xứ với nhiều điều kiện cụ thể mà các nước xuất khẩu cần biết và tuân thủ, nếu vi phạm sẽ bị phạt.
Hiện tại Việt Nam đang là nước xuất khẩu nhiều hàng hóa sang các nước thuộc khu vực và tổ chức khác nhau và đang chịu nhiều ràng buộc về xuất xứ sản phẩm và các loại nguyên, nhiên liệu, lao động được sử dụng để sản xuất. Chẳng hạn:
- Đồ gỗ thì nguyên liệu gỗ phải từ rừng trồng.
- Hải sản đánh bắt đúng nơi quy định, đúng mùa, sử dụng đúng loại thiết bị đánh bắt, không đánh bắt trên vùng biển nước ngoài,…
- Quần áo, giày dép, đồ gia dụng phải được sản xuất ở nơi có điều kiện sản xuất ít gây hại đến sức khỏe người lao động, không sử dụng lao động trẻ em,…
- Giá thành các sản phẩm phải được tính đúng, tính đủ, tránh tình trạng trợ giá (của Chính phủ) để cạnh tranh với sản phẩm nước khác,…
- ….
Những ràng buộc kể trên có một lý do chung là ngăn chặn và giảm thiểu những vấn đề môi trường toàn cầu như biến đổi khí hậu do gia tăng phát thải chất khí nhà kính vào bầu khí quyển, hay cạn kiệt tài nguyên rừng nguyên sinh và rừng tự nhiên, vấn đề lạm dụng lao động trẻ em, không tạo điều kiện tốt cho người lao động. Vấn đề công bằng trong thương mại cũng được đề cao nhằm ngăn chặn xâm phạm lãnh thổ, xâm phạm tài nguyên của quốc gia khác hay cố tình trợ giá để hạ giá thành sản phẩm nhằm cạnh tranh thiếu lành mạnh,… Phần lớn những ràng buộc như vậy có ý nghĩa, giá trị trên phạm vi toàn cầu và được đa số các quốc gia đồng tình, hưởng ứng. Vì vậy các quốc gia tham gia các hiệp định phải hiểu rõ và cam kết thực hiện các ràng buộc này để hàng hóa của mình có thể xuất khẩu được sang các nước khác.
Tuy nhiên, việc minh chứng tuân thủ cam kết không phải là điều dễ dàng và phải luôn luôn nghiên cứu kỹ và có kế hoạch, có hoạt động quyết liệt ở nhiều quy mô mới có thể làm rõ mức tuân thủ của quốc gia mình. Chính vì vậy, vẫn có những vi phạm cam kết mà đôi khi quốc gia nào đó chưa lường trước được và phải chịu hình phạt, thậm chí không thể xuất khẩu hàng hóa nữa. Rất hay là một số hình phạt lấy theo các hình phạt trong bóng đá như thẻ vàng, thẻ đỏ nên khá dễ hiểu. Ví dụ dưới đây là minh chứng cho nhận định này.
Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ đưa/rút ra “Thẻ vàng” đối với quốc gia vi phạm quy định hàng hóa hải sản khi nhập khẩu vào thị trường Châu Âu (EU) mà thiếu khai báo, thiếu minh chứng xác nhận nguồn gốc, đảm bảo không vi phạm quy định IUU (khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định). Khi quốc gia nào bị EC rút “thẻ vàng” sẽ bị công bố rộng rãi trên thế giới, hàng thủy sản nhập vào EU sẽ bị tăng cường kiểm tra với thời gian kiểm tra kéo dài làm tăng rất cao chi phí.
Gần đây, khi đưa ra lý do Việt Nam chưa kiểm soát được hoạt động khai thác IUU tại vùng biển ngoài Việt Nam; công tác quản lý nghề cá Việt Nam còn nhiều bất cập và đặc biệt chưa đáp ứng được các quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm khai thác nên EC đã rút “thẻ vàng” đối với sản phẩm khai thác hải sản của Việt Nam vào ngày 23/10/2017. EC đã chỉ rõ những con số về tàu cá Việt Nam bị nước ngoài bắt giữ, xử lý, về những bất cập về quản lý đánh bắt hải sản như:
- Ngư dân chưa thực hiện nghiêm việc lắp đặt, vận hành thiết bị giám sát hành trình
- Công tác thực thi, xử lý, xử phạt còn chưa nghiêm, chưa thống nhất giữa các địa phương; chế tài xử phạt còn chưa đủ mạnh so với các nước trong khu vực, chưa đảm bảo tính răn đe.
- Công tác kiểm soát tàu cá ra vào cảng, lao động trên tàu cá, kiểm soát sản lượng qua cảng để chứng nhận, xác nhận, truy xuất nguồn gốc hải sản khai thác còn thiếu chặt chẽ, độ tin cậy thấp.
Điều đó chứng tỏ công tác quản lý đánh bắt của Việt Nam chưa tương đồng với nghề cá khu vực và thế giới. Việt Nam đang cố gắng “gỡ” thẻ vàng IUU, nếu không sẽ lại bị công bố rộng rãi trên thế giới làm ảnh hưởng lớn đến hình ảnh, uy tín quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế.
Ngoài thẻ vàng EU còn có thẻ phạt nặng hơn là “Thẻ đỏ” IUU, khi quốc gia nào bị dính thẻ này sẽ bị áp dụng một số chính sách, rào cản trừng phạt, thậm chí bị cấm nhập khẩu vào thị trường EU, đồng thời bị đưa vào danh sách theo dõi. Khi đó, có thể gia tăng nguy cơ bị Mỹ và những thị trường tiềm năng khác cũng hành động tương tự làm ngành hải sản Việt Nam mất thị trường.
EU có nhiều cách kiểm soát mức tuân thủ nên không dễ “qua mặt” nên tốt nhất là thực hiện đầy đủ các quy định của họ, đồng thời chuẩn bị đầy đủ minh chứng về tuân thủ để đưa ra khi EU yêu cầu.
Chắc chắn, khi một quốc gia bị phạt vì không tuân thủ quy định trong một hiệp đinh, đặc biệt là hiệp định thương mại, họ sẽ chịu nhiều thiệt hại như thiệt hại về danh tiếng quốc gia, về chỗ đứng trên trường quốc tế, khu vực và cụ thể nhất là thiệt hại về kinh tế. Chỉ cần nêu lý do trợ giá bất hợp lý cho sản xuất một sản phẩm, quốc gia nhập khẩu có thể áp mức thuế cao mà họ gọi là mức thuế áp cho sản phẩm bán phá giá. Tất nhiên, để áp dụng mức thuế này họ có những tiêu chí đánh giá chặt chẽ, có những đợt kiểm tra, thanh tra thực địa và tham khảo hoạt động thị trường. Chính vì vậy, nhiều khi mức thuế này được quy định rất khác nhau cho từng doanh nghiệp của một quốc gia nên các doanh nghiệp phải nắm rõ quy định để có giải pháp tuân thủ để không bị áp loại thuế này.
Lấy ví dụ thuế chống bán phá giá của Mỹ đối với cá tra của Việt Nam có nhiều mức, có thể ở mức 0,0 USD/kg đối với doanh nghiệp này nhưng lên tới 2,39 USD/kg đối với doanh nghiệp khác.
Đối với ngành hải sản Việt Nam, tính từ 2017 đến nay lượng hàng xuất sang thị trường EU đứng từ vị trí thứ 2 đã giảm xuống vị trí thứ 5. Nếu tiếp tục bị phạt “thẻ vàng”, 100% các lô hàng hải sản của Việt Nam sẽ bị giữ lại kiểm tra với thời gian kiểm tra kéo dài (có thể 3-4 tuần) làm tăng chi phí (chi phí kiểm tra vào khoảng 500 bảng Anh/container), chi phí lưu kho và nhiều chi phí khác cũng sẽ phát sinh. Ngoài ra, ếu trường hợp không đạt thì hàng hóa sẽ bị trả về, doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ nặng, có thể lên tới hàng trăm triệu đồng Việt Nam đối với mỗi container.
Qua phân tích ở trên cho thấy, nếu thực hiện tốt việc tuân thủ các hiệp định, các quốc gia nói chung, các ngành, nghề, doanh nghiệp nói riêng đều giảm được chi phí do bị phạt, bị nâng thuế nhập khẩu hàng hóa vi phạm. Chỉ cần giảm thuế một chút thôi nhưng nếu lượng hàng hóa xuất khẩu nhiều thì lợi ích thu được đã rất đáng kể. Trong suốt khoảng thời gian dài tham gia nhiều hiệp định nhưng Việt Nam chưa có nhiều dự án tính toán cụ thể chỉ ra thiệt hại do bị thẻ vàng, do bị áp thuế cao cũng như những lợi ích thu được khi giảm được thuế, giảm được chi phí phát sinh khi bị phạt vì không đáp ứng các điều kiện của các hiệp định. Phải chăng đây là điều cần được đặt ra để tất cả các bên liên quan hợp tác làm rõ để tìm cách giảm thiệt hại và tăng lợi ích khi tham gia các hiệp định quốc tế.
Kết luận
Qua những phân tích ngắn gọn ở trên có thể thấy chưa có gì nhiều để đưa ra kết luận đầy đủ nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Dưới đây xin trình bày một vài suy ngẫm thay cho kết luận.
Việc tuân thủ các hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết cần sự vào cuộc của nhiều bên, nhiều tổ chức, kể cả của nhà nước, doanh nghiệp và cả các cộng đồng, thậm chí là cả cá nhân có liên quan. Vì vậy, cần xác định rõ trách nhiệm của từng bên để có giải pháp thật sát với điều kiện thực tế, có tính khả thi và tính hiệu quả cao. Chẳng hạn về quy định về hàng hóa hải sản nhập khẩu vào thị trường theo hiệp định ký với Liên minh châu Âu thì:
- Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nắm rõ nội hàm hiệp định, nắm rõ những quy định phải tuân thủ, cụ thể hóa thành chủ trương, chính sách để thực hiện. Đồng thời, tổ chức thực hiện để kiểm soát được các tàu thuyền đánh bắt đúng vùng biển được phép, không để xảy ra tình trạng xâm phạm, đánh bắt trái phép trên hải phận quốc gia khác. Xây dựng được các tổ chức giám sát đủ mạnh, có phương tiện hiện đại (lắp định vị cho tàu, lắp hệ thống kiểm soát từ xa) để theo dõi, cảnh báo kịp thời những tàu thuyền đánh bắt có thể vi phạm. Tổ chức kết nối các cơ quan như cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và các cơ quan ngành đánh bắt hải sản để nắm chắc từng tàu thuyền từ lúc ra khơi cho tới khi về cảng. Trong các đợt EU kiểm tra để xem xét sử dụng hay gỡ bỏ thẻ vàng IUU, công tác tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành được đề cao vì họ hiểu rằng công tác này mang tính chất quyết định.
- Các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu sử dụng sản phẩm đánh bắt cần có mối liên hệ chặt chẽ với ngư dân để biết chắc ngư dân đánh bắt ở vùng biển nào, có vi phạm quy định hay không và phải hỗ trợ ngư dân có được thiết bị tốt nhất đủ kiểm soát được vị trí đánh bắt, mùa đánh bắt, cách bảo quản hải sản, không thải rác nhựa ra biển,… Đã có một doanh nghiệp chế biến hải sản xuất khẩu lớn là Vĩnh Hoàn thành lập hẵn một đội tàu đánh bắt được trang bị tốt, đánh bắt đúng vùng biển quy định, sử dụng thiết bị hiện đại, thủy thủ, ngư dân được đào tạo, có kỷ luật tốt nên không chỉ có đầy đủ minh chứng về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm mà còn có cả minh chứng không xả rác nhựa ra đại dương. Và, có lẽ vì vậy nên doanh nghiệp này được ưu đãi về thuế và mở rộng được thị trường trong EU.
- Các cộng đồng ngư dân cần nâng cao kiến thức về quy định cấm đánh bắt trái phép ở ngư trường nước láng giềng, luôn sử dụng định vị để tiện theo dõi vị trí đánh bắt, luôn học hỏi để có thể dánh bắt đúng loại hải sản, đúng quy trình lưu giữ hải sản và cả ý thức bảo vệ môi trường biển, không xả thải rác, đặc biệt là rác thải nhựa ra biển. Một điều cần nhấn mạnh thêm là ngư dân phải luôn giữ và sẵn sàng trình các minh chứng về sự tuân thủ của mình. Sự kiểm soát của ngư dân với nhau có ý nghĩa lớn vì họ biết rõ và có thể đấu tranh trực diện với ngững người cố tình vi phạm, những “con sâu “ làm rầu “nồi canh” để cùng nhau tuân thủ tốt quy định của các hiệp định, để nâng cao chính các lợi ích của họ.
Chắc chắn, sau thời gian khá dài cố gắng gỡ bỏ thẻ vàng đối với sản phẩm hải sản xuất khẩu, từng bên nêu trên sẽ có thêm kinh nghiệm bổ ích để không còn vi phạm, không bị thiệt hại cả về kinh tế và cả thiệt hại về uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Kể ra còn nhiều điều muốn được nêu nhiều hơn nhưng với khuôn khổ một bài mang tính tham luận chúng tôi xin phép dừng tại đây, nếu sau này có dịp sẽ thảo luận thêm.
Hoàng Xuân Cơ
Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam