Nhiều vấn đề được trao đổi tại Hội thảo Thực thi cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP ở Việt Nam
Sáng 31/10, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo khoa học "Đánh giá việc thực thi cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP tại Việt Nam".
Theo đó, thực hiện hoạt động tư vấn phản biện theo nhiệm vụ do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam chỉ đạo, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam giao cho Viện Chính sách Kinh tế Môi trường Việt Nam lên kế hoạch thực hiện. Sau khi có sự thống nhất và trao đổi, Viện Chính sách Kinh tế Môi trường Việt Nam đã phối hợp cùng Tạp chí Kinh tế Môi trường tổ chức Hội thảo Khoa học “Đánh giá việc thực thi cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP tại Việt Nam”.
Đoàn Chủ tịch điều phối Hội thảo gồm: PGS.TS Trương Mạnh Tiến - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường; PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế Môi Trường Việt Nam (VIASEE); PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, Viện trưởng Viện Chính sách Kinh tế Môi trường.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS Lưu Đức Hải khẳng định, môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững. Hiện nay có 2 xu hướng chính, thứ nhất là đưa các tiêu chí kinh tế vào trong các hiệp định đa biên về môi trường, thứ hai là đưa các tiêu chí về môi trường vào các hiệp định kinh tế đa biên.
"Đây rõ ràng là những vấn đề khó mà Việt Nam phải đáp ứng. Chính vì thế, VIASEE rất ủng hộ việc xây dựng một đề tài về yếu tố môi trường liên quan đến các hiệp định đa biên. Đây cũng chính là chủ đề bàn thảo của Hội thảo hôm nay. Rất mong được lắng nghe ý kiến đóng góp của các đại biểu", PGS.TS Lưu Đức Hải chia sẻ.
Khẳng định vai trò chỉ đạo và điều phối của Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên Hiệp hội) trong việc tổ chức Hội thảo khoa học "Đánh giá việc thực thi cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP tại Việt Nam", PGS.TS Trương Mạnh Tiến cho biết, trong thời gian tới sẽ có nhiều điều chỉnh liên quan đến đội ngũ trí thức khoa học công nghệ. Vai trò của của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ và Liên Hiệp hội sẽ được coi trọng hơn và đánh giá đúng với bản chất.
"Trở lại với chủ đề của Hội thảo ngày hôm nay. Việt Nam là một thành viên của Hiệp định CPTPP, do đó chúng ta có nhiều lợi thế và một số khó khăn nhất định. Chúng ta phải vượt qua nhiều rào cản về thuế quan, công nghệ và đặc biệt là rào cản về môi trường. Đó cũng là chủ đề bàn thảo ngày hôm nay.
Được Liên Hiệp hội tin tưởng giao nhiệm vụ, VIASEE đã mạnh dạn tổ chức Hội thảo khoa học "Đánh giá việc thực thi cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP tại Việt Nam". Mặc dù thời gian chuẩn bị rất ngắn, nguồn lực hạn chế, song với trách nhiệm của những nhà khoa học, trách nhiệm với đất nước, chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện.
Chúng tôi sẽ hết sức tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại biểu với tinh thần cầu thị. Cảm ơn sự nỗ lực, hăng hái và trách nhiệm của các nhà khoa học, chúc Hội thảo thành công tốt đẹp", PGS.TS Trương Mạnh Tiến bày tỏ.
Cơ hội và thách thức
Trình bày tham luận tại Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh đã nêu ra những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi thực hiện các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTTP. Theo ông Chinh, Việt Nam có 6 cơ hội:
Thứ nhất, tự do hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường sẽ mang đến không gian tăng trưởng cho ngành công nghiệp môi trường và hỗ trợ Việt Nam giảm thiểu ô nhiễm môi trường với chi phí thấp hơn. Những lợi ích tiềm tàng của việc tự do hóa hàng hóa môi trường đối với các nước đang phát triển như Việt Nam là việc tạo ra những cơ hội xuất khẩu mới và đẩy mạnh nhập khẩu hàng hóa môi trường có chất lượng cao.
Thứ hai, việc chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp của Việt Nam với các hoạt động về thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, cũng như thúc đẩy các hoạt động về hiệu quả năng lượng sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
Thứ ba, các vấn đề về bảo tồn đa dạng sinh học, buôn bán trái phép các loại động thực vật quý hiếm sẽ từng bước được ngăn chặn.
Thứ tư, cộng đồng và các tổ chức NGOs sẽ có vai trò quan trọng hơn trong việc tham gia vào các hoạt động ngăn chặn thương mại kém bền vững và được góp tiếng nói, được cung cấp thông tin.
Thứ năm, Việt Nam được tham gia vào các hoạt động và sẽ có tiếng nói hơn trong các hoạt động thúc đẩy thương mại bền vững do cơ chế tổ chức luân phiên về vị trí Chủ tịch của Ủy ban Môi trường, trong khi cơ chế giải quyết các xung đột thương mại - môi trường giữa các quốc gia cũng sẽ được thực hiện tốt hơn.
Thứ sáu, Việt Nam sẽ được hưởng các lợi ích và có cơ hội nhận được các tài trợ cho thực hiện các hoạt động thương mại bền vững do cơ chế trợ hợp tác và trợ giúp của các nước phát triển trong khối. Như vậy những cơ hội tạo ra của các điều khoản quy định về BVMT liên quan đến thương mại trong Hiệp định CPTPP giúp cho Việt Nam không chỉ thực hiện những cám kết của mình mà còn thúc đẩy nhanh hơn những chủ trương, chính sách của Việt Nam về bảo vệ môi trường đã được Đảng và Nhà nước ban hành.
Bên cạnh đó, có 3 thách thức lớn đối với Việt Nam:
Thứ nhất, các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác, chế biến và sản xuất các sản phẩm cho xuất khẩu sẽ ngày càng cao. Đặc biệt là đối với các ngành xuất khẩu nông sản, thủy sản và đồ gỗ. Chẳng hạn, ngành khai thác thủy sản xa bờ và các hoạt động xuất khẩu thủy sản từ đánh bắt của Việt Nam sẽ chịu thiệt hại do các yêu cầu về loại bỏ các trợ cấp đối với hoạt động đánh bắt và các quy định, tiêu chuẩn về chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững, các cam kết về xử lý hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Các hoạt động vận tải biển cũng sẽ gặp nhiều thách thức đối với sự gia tăng các tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng môi trường.
Thứ hai, Việt Nam sẽ bị cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa đối với nhóm hàng hóa và dịch vụ môi trường và nhóm hàng hóa và dịch vụ hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế cácbon thấp do mở cửa tự do hóa thương mại. Nguyên nhân là ngành công nghiệp môi trường của Việt Nam còn đang phát triển manh mún, chủ yếu nhập khẩu hàng hóa môi trường từ bên ngoài, trong khi xuất khẩu chủ yếu là của các doanh nghiệp FDI và chủ yếu tập trung vào các khâu về gia công lắp ráp.
Thứ ba, việc kết nối giữa các chính sách thương mại và chính sách môi trường trong thời gian qua chưa thực sự được quan tâm, các hoạt động thương mại và môi trường chưa được gắn kết chặt chẽ. Việt Nam có thể có nguy cơ đối mặt với các vụ kiện thương mại - môi trường trong thương mại quốc tế. Với những thách thức trên là những cảnh báo cho Việt Nam, một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong Hiệp định CPTPP, do vậy buộc chúng ta phải sửa đổi những chính sách đang tồn tại không còn phù hợp và bổ sung những chính sách mới phù hợp với những quy định môi trường trong Hiệp định CPTPP phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Các cam kết môi trường trong CPTPP đã mở ra một chương mới trong việc đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo các hoạt động thương mại quốc tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường cũng như góp phần hỗ trợ, thúc đẩy thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường. Mặc dù vậy, các cam kết môi trường cũng sẽ tạo ra những khó khăn và thách thức cho các quốc gia đang phát triển trong việc đảm bảo các quy định và tiêu chuẩn môi trường đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, việc thực thi các cam kết cũng sẽ hỗ trợ các quốc gia này, cũng như Việt Nam trong việc đảm bảo được các mục tiêu môi trường từ quá trình tăng trưởng kinh tế và tham gia vào thị trường toàn cầu.
Để khai thác có hiệu quả và thực thi tốt các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP mà Việt Nam đã thông qua. PGS.TS Nguyễn Thế Chinh đưa ra một số khuyến nghị, đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần thực hiện các đánh giá tổng thể tác động của các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP, từ đó đưa ra các khuyến nghị, đề xuất cho Chính phủ trong việc xây dựng chính sách nhằm khai thác có hiệu quả các cam kết.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, đặc biệt là cần phải rà soát, bổ sung và điều chỉnh các quy định nhằm tương thích với các cam kết môi trường mà Việt Nam đã đưa ra. Chẳng hạn các quy định về trợ cấp, hỗ trợ ưu đãi đối với ngành thủy sản cũng cần được xem xét lại đề không vi phạm cam kết về trợ cấp trong khai thác, đánh bắt thủy sản. Những quy định trong Hiệp định CPTPP sẽ phải được đưa vào và sửa đổi những luật liên quan tới đây như luật đa dạng sinh học, luật tài nguyên và môi trường biển, luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật hàng hải….
Thứ ba, cần tập trung vào một số cam kết đối với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ mà Việt Nam có lợi thế trong xuất khẩu để tập trung ưu tiên chính sách và giải pháp để thực thi và khai thác có hiệu quả các cam kết.
Thứ tư, Việt Nam cần nhanh chóng hình thành mạng lưới, các cơ quan đầu mối tại các Bộ, ngành và xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc tham gia và thực hiện các quyền và nghĩa vụ, cũng như các hoạt động có liên quan khi Hiêp định CPTPP đi vào thực hiện.
Thứ năm, cần hỗ trợ doanh nghiệp, cán bộ quản lý các ngành, lĩnh vực nâng cao nhận thức về các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP nhằm hỗ trợ quá trình xây dựng chính sách, điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với bối cảnh mới.
Những rào cản hiện hữu
Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Văn Hiến – Đại diện Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) nhận định, khi thực thi các cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP thì câu chuyện phối hợp giữa các cơ quan là điểm yếu nhất. Bởi nhìn vào thực tế, nó không chỉ liên quan đến lợi ích cá nhân mà còn liên quan đến lợi ích của ngành, do vậy hiệu quả phối hợp không được như mong muốn. Trong khi đó, ở một số nước, việc phối hợp giữa các cơ quan liên quan họ làm rất tốt và phát huy hiệu quả.
“Mong rằng, khi chúng ta đưa ra đề xuất đến cơ quan quản lý thì ngoài việc hoàn thiện cơ chế chính sách thì cũng cần lưu ý xem làm thế nào để có được sự phối hợp thực sự hiệu quả.
Một vấn đề nữa đó là các quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan đến vấn đề môi trường trong Hiệp định CPTPP. Có thể những tiêu chuẩn, quy chuẩn này được Việt Nam công nhận, nhưng Quốc tế họ không công nhận. Điều này sẽ liên quan mật thiết đến việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tương lai.
Chúng ta không thể thoát khỏi xu hướng chung của thế giới, nhưng chúng ta sẽ tham gia cuộc chơi như thế nào để không bị thua thiệt, khi mà phải chơi cùng với nhiều quốc gia phát triển?", ông Hiến lưu ý.
Đồng quan điểm với ông Nguyễn Văn Hiến, PGS.TS Lưu Đức Hải cho rằng, cơ chế liên quan đến các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường (nhãn sinh thái, nhãn xanh…) hiện nay quá cứng nhắc. Các Bộ, ngành đang ôm đồm quá nhiều việc nhưng không hiệu quả. Việt Nam có hàng triệu sản phẩm, mỗi sản phẩm lại có hàng nghìn cách để sản xuất, liệu Bộ, ngành có ôm hết được hay không?.
“Các Bộ, ngành chỉ nên tạo ra cơ chế, và hãy để các hội, hiệp hội, tổ chức ngành nghề tạo ra trung tâm để chứng nhận, giám sát và kiểm soát các quy chuẩn, tiêu chuẩn đó. Làm được như vậy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp”, ông Hải nhấn mạnh.
Về phần mình, ông Lại Văn Mạnh – Đại diện Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, thời gian gần đây vấn đề môi trường luôn được đề cao trong các hiệp định đa biên. Tuy nhiên, hầu hết các thuật ngữ trong hiệp định đa biên đều rất mới. Chính vì vậy, vai trò của các nhà khoa học rất quan trọng, đó là làm rõ khái niệm, nội hàm của những thuật ngữ này trong các hiệp định đa biên.
“Bên cạnh đó, cần đánh giá tổng thể các vấn đề kể từ khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định CPTPP, từ thể chế pháp luật đi đến thực thi như thế nào? Sửa một Luật không dễ và mất nhiều thời gian, do đó cần dựa vào lăng kính Hiệp định CPTPP, từ khi gia nhập đến nay chúng ta đã thể chế hóa được những gì?
Thực tế, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thay đổi thể chế, pháp luật cho phù hợp với tình hình, ví dụ như đưa ra khái niệm công nghiệp môi trường và kinh tế tuần hoàn... Mặc dù vậy, như các chuyên gia đã đề cập trước đó, tính phối hợp rất quan trọng. Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý với các nhà khoa học và doanh nghiệp…”, ông Mạnh chia sẻ.
Chia sẻ tại Hội thảo, Luật sư Hà Huy Phong – Trưởng Ban Pháp chế Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Chính sách Kinh tế Môi trường cho biết, hiện nay nhận thức của cộng đồng về vấn đề môi trường trong Hiệp định CPTPP còn rất hạn chế.
"Về mặt nhận thức, chúng tôi có tiến hành một khảo sát nhỏ tại một số cơ quan thực thi pháp luật, cộng đồng dân cư và doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, hiểu biết của họ về CPTPP còn rất hạn chế. Chính vì vậy, cần có những giải pháp để hỗ trợ, tuyên truyền phổ biến để người dân hiểu rõ hơn về Hiệp định CPTPP, về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong đó.
Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 40 công ước về môi trường, vấn đề là chúng ta áp dụng các quy định, cam kết quốc tế vào Việt Nam như thế nào. Một là, áp dụng trực tiếp. Hai là, thông qua nội luật hóa. Khi mà chuyển hóa cam kết quốc tế vào quy định trong nước thì phải đảm bảo được tính đồng bộ, tương thích, và phải có văn bản hướng dẫn thi hành.
Khoảng cách từ cơ chế, chính sách pháp luật đến thực thi còn rất xa, do đó cần có cơ chế thực thi pháp luật tốt hơn, đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu, tránh bị tụt hậu so với các nước cùng tham gia CPTPP.
Trong Hiệp định CPTPP có đề cập đến khái niệm “Tiêu chuẩn cao về môi trường”, nhưng tiêu chuẩn nào thì bản thân tôi cũng không biết. Nếu theo tiêu chuẩn châu Âu thì Việt Nam thực sự rất vất vả mới có thể đạt được", Luật sư Hà Huy Phong trăn trở.
Phát biểu kết luận Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh cho rằng, các vấn đề liên quan đến Hiệp định CPTPP, đặc biệt là vấn đề về môi trường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, chúng ta cần phải gấp rút nhìn nhận lại vấn đề và điểu chỉnh cho phù hợp với xu thế của thời đại.
Thiện Tâm