Hiệu quả hoạt động của công cụ Quỹ Bảo vệ môi trường và một số vấn đề cần quan tâm
Hệ thống Quỹ Bảo vệ môi trường trong thời gian qua đã trở thành một trong số công cụ kinh tế quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường góp phần hiệu quả trong việc đầu tư xử lý, cải thiện ô nhiễm môi trường.
Trong quá trình triển khai thời gian qua, vẫn còn một số bất cập, hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động của Quỹ, cũng như các hạn chế trong công tác tổ chức, triển khai giải ngân cho các dự án, nên hiệu quả hoạt động của Quỹ chưa thực sự đạt được như mong muốn. Chính vì vậy, thông qua bài viết này, trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống Quỹ Bảo vệ môi trường, tác giả đưa đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Quỹ Bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, ô nhiễm môi trường trở thành một trong những vấn đề nóng và cấp thiết. Với mục đích, tăng cường nhiệm vụ bảo vệ môi trường, bên cạnh việc ban hành hệ thống luật pháp và các công cụ kiểm soát chặt chẽ các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm thực hiện theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” thì các công cụ kinh tế được sử dụng đồng thời với các công cụ hành chính - kỹ thuật trong quản lý và bảo vệ môi trường để kiểm soát nguồn ô nhiễm, quản lý chất thải, quản lý cảnh quan thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Một trong số các công cụ kinh tế hiện đang được áp dụng tại Việt Nam là hệ thống các Quỹ Bảo vệ môi trường nhằm hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường thông qua hỗ trợ vay ưu đãi, vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị trường, tài trợ không hoàn lại… Để phát triển bền vững, buộc các Quỹ Bảo vệ môi trường (BVMT) phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo được nguồn vốn hoạt động và có phương thức hỗ trợ tài chính phù hợp để đạt mục tiêu bảo vệ môi trường. Bài viết này tác giả tập trung vào việc đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống các Quỹ BVMT hiện hành ở Việt Nam, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị để tiếp tục hoàn thiện hoạt động của hệ thống Quỹ BVMT.
2. Tổng quan về Quỹ Bảo vệ môi trường
Tại Điều 149 Luật Bảo vệ môi trường 2014, Quỹ BVMT được định nghĩa như sau:
“1. Quỹ Bảo vệ môi trường là tổ chức tài chính được thành lập ở trung ương, ngành, lĩnh vực, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường".
Tại Điều 151 Luật Bảo vệ môi trường mới được Quốc hội thông qua năm 2020, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2022, Quỹ BVMT được định nghĩa như sau: “Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ Bảo vệ môi trường cấp tỉnh là tổ chức tài chính nhà nước, được thành lập ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để cho vay ưu đãi, nhận ký quỹ, tài trợ, hỗ trợ, đóng góp tài chính đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường".
Như vậy, Quỹ BVMT là tổ chức tài chính của nhà nước, có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, con dấu và bảng cân đối kế toán riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ BVMT là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhưng phải bảo toàn vốn điều lệ và tự bù đắp chi phí quản lý hoặc tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên; bảo đảm công khai, minh bạch và bình đẳng.
Quỹ được thành lập ở cấp Trung ương được gọi là Quỹ BVMT Việt Nam và Quỹ được thành lập ở cấp tỉnh được gọi là Quỹ BVMT cấp tỉnh/địa phương.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, tổ chức và hoạt động của các Quỹ BVMT địa phương. Thông thường các Quỹ BVMT địa phương trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và chịu sự quản lý nhà nước về tài chính của Sở Tài chính.
Chức năng, nhiệm vụ của các Quỹ BVMT là tiếp nhận vốn của ngân sách nhà nước, vốn tài trợ, huy động từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật để thực hiện hỗ trợ tài chính cho các tổ chức, cá nhân có các chương trình, dự án hoạt động về bảo vệ môi trường qua đó giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường. Ngoài ra, Quỹ còn có thêm nhiệm vụ tiếp nhận, quản lý nguồn vốn ủy thác tài chính từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động theo hợp đồng ủy thác; tiếp nhận tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản.
Cho đến nay, trên phạm vi cả nước đã có 48 Quỹ BVMT được thành lập, gồm: Quỹ BVMT Việt Nam, Quỹ BVMT ngành than thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam và 46 Quỹ BVMT của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Ở trung ương có Quỹ BVMT Việt Nam do Thủ tướng quyết định thành lập. Ngày 26/6/2002 Quỹ BVMT Việt Nam (VEPF) được thành lập theo Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, với số vốn điều lệ 200 tỷ đồng. Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định quy định lại tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam, với số vốn điều lệ là 500 tỷ đồng và một số nhiệm vụ được bổ sung. Hoạt động của Quỹ chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ cho vay với lãi suất ưu đãi; nghiệp vụ tài trợ cho các hoạt động khắc phục, xử lý ô nhiễm môi trường do thiên tai, dịch bệnh, sự cố tràn dầu và hỗ trợ một số hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, giải thưởng môi trường.
Các lĩnh vực mà Quỹ BVMT Việt Nam hỗ trợ cho vay gồm:
- Xử lý nước thải sinh hoạt tập trung có công suất thiết kế từ 2.500 m3 nước thải trở lên trong một ngày đêm đối với khu vực đô thị từ loại IV trở lên.
- Xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề.
- Thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn thông thường tập trung.
- Xử lý chất thải nguy hại, đồng xử lý chất thải nguy hại.
- Xử lý, cải tạo các khu vực môi trường bị ô nhiễm tại các khu vực công cộng.
- Sản xuất, nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện chuyên dùng sử dụng trực tiếp trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải; quan trắc và phân tích môi trường; sản xuất năng lượng tái tạo; xử lý ô nhiễm môi trường; ứng phó, xử lý sự cố môi trường.
- Sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường được Bộ Tài nguyên và Môi trường gắn Nhãn xanh Việt Nam; sản phẩm từ hoạt động tái chế, xử lý chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận.
- Quan trắc môi trường.
- Các lĩnh vực khác quy định tại Phụ lục III Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 và Phụ lục III Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2019).
Ở địa phương, đến nay đã có 46 Quỹ Bảo vệ môi trường cấp tỉnh được thành lập, trong đó, có 3 Quỹ được thành lập từ năm 2004 - 2006, có 9 Quỹ được thành lập từ năm 2007 - 2009, có 10 Quỹ được thành lập từ năm 2010 - 2011, số còn lại được thành lập từ năm 2012 đến nay.
Thực tế kết quả hoạt động của các Quỹ BVMT đã khẳng định, Quỹ BVMT đã bước đầu phát huy được vai trò, tác dụng và hiệu quả trong sự nghiệp bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, giảm áp lực, gánh nặng cho ngân sách nhà nước chi cho hoạt động bảo vệ môi trường. Do đó, việc duy trì và phát triển hệ thống Quỹ BVMT là cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và đòi hỏi của sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, Quỹ BVMT chưa được thành lập tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đối với các Quỹ BVMT cấp tỉnh, thành phố đã được thành lập, đi vào hoạt động nhưng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, nguồn vốn hoạt động…, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao.
3. Kết quả hoạt động của các Quỹ Bảo vệ môi trường
Ở trung ương, theo Điều lệ hoạt động được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các nguồn lực của Quỹ BVMT Việt Nam đều hướng tới mục tiêu cải thiện môi trường, nhằm góp phần tạo nên một môi trường xanh - sạch - đẹp và phát triển bền vững đất nước.
Với hoạt động chủ yếu là cho vay quay vòng vốn, nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho Quỹ BVMT đã hỗ trợ được cho nhiều dự án, hoạt động bảo vệ môi trường, đồng thời có nguồn thu tự trang trải chi phí hoạt động, từ đó giảm bớt áp lực, gánh nặng ngân sách nhà nước chi cho hoạt động này. Quỹ BVMT đã góp phần tích cực vào quá trình đồng bộ hóa các công cụ tài chính, chính sách của Nhà nước, hiện thực hóa các cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Hình thức hỗ trợ tài chính chủ yếu của Quỹ là hoạt động cho vay với lãi suất ưu đãi, chiếm tỷ trọng trên 84% hoạt động của Quỹ. Lãi suất vay vốn ưu đãi được Quỹ xác định hàng năm và phải đảm bảo không vượt quá 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Tính đến năm 2019, Quỹ đã cho vay 293 dự án; tài trợ cho 68 dự án và hoạt động bảo vệ môi trường; hỗ trợ giá điện gió nối lưới cho 05 dự án; hỗ trợ hoạt động và dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM); trợ giá sản phẩm CDM; thu lệ phí bán/chuyển chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs); vận động tài trợ và chi hỗ trợ từ nguồn vận động tài trợ. Năm 2020, Quỹ đã thực hiện cho vay 338.519 triệu đồng, đạt 98% chỉ tiêu kế hoạch; thu hồi vốn cho vay đạt 224.946 triệu đồng, đạt 104% chỉ tiêu kế hoạch; thu lãi cho vay đạt 101% chỉ tiêu kế hoạch. Trong đó, nợ xấu của Quỹ được kiểm soát, an toàn. Tại thời điểm 31/12/2020, tỷ lệ nợ xấu là 2,49% - thấp hơn cùng kỳ năm trước (2,92%). Đảm bảo mức dưới 3,0% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Công tác ký quỹ phục hồi trong khai thác khoáng sản đạt 24.785 triệu đồng, đạt 124% kế hoạch năm. Từ năm 2016 đến nay, Quỹ đã mở rộng lĩnh vực ưu tiên cho vay từ 5 lên 8 lĩnh vực ưu tiên nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư bảo vệ môi trường cho nhiều đối tượng khách hàng, đồng thời mở rộng phạm vi hỗ trợ tài chính. Theo đó, lãi suất hỗ trợ cho vay của Quỹ cũng giảm dần từ 3,6%/năm xuống còn 2,6%/năm, các điều kiện về đảm bảo tiền vay, thời gian vay, quy trình và các thủ tục cho vay cũng được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi. Năm 2021, Quỹ BVMT Việt Nam đang triển khai chương trình cho vay ưu đãi, tài trợ. Theo đó, các doanh nghiệp có dự án bảo vệ môi trường được vay tối đa 70% tổng mức đầu tư dự án, lãi suất cho vay từ 2,6-3,6%/năm cố định trong suốt thời gian vay; thời gian vay tối đa 10 năm.
Bên cạnh hoạt động cho vay, hỗ trợ lãi suất vay, các hoạt động khác của Quỹ đã góp phần vào công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, kinh tế xanh...
Những kết quả đạt được của Quỹ BVMT Việt Nam thời gian qua đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Chính phủ về chính sách hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường thông qua Quỹ BVMT Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò của Quỹ BVMT Việt Nam là một trong những công cụ kinh tế hữu hiệu trong hỗ trợ triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.
Ở địa phương, tương tự như Quỹ BVMT Việt Nam, các Quỹ BVMT các tỉnh cũng có các hoạt động cho vay, hỗ trợ lãi suất vay, ký quỹ phục hồi khai thác khoáng sản…
Các Quỹ BVMT địa phương triển khai hoạt động cho vay với lãi suất ưu đãi, lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu là các dự án, công trình xử lý ô nhiễm khí thải, nước thải công nghiệp, thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt. Tùy vào điều kiện và đặc điểm của từng địa phương mà mức lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, mức vốn cho vay khác nhau. Mức lãi suất cho vay thấp nhất là 3,8%/năm tại Quỹ BVMT tỉnh Bình Định; mức lãi suất cho vay cao nhất là 5,4%/năm tại Quỹ BVMT tỉnh Thái Nguyên. Thời hạn cho vay trung bình từ 3 đến 5 năm, có địa phương tối đa cho vay tới 10 năm. Mức vốn cho vay thấp nhất là 300 triệu đồng/1công trình, dự án (Bắc Giang, Hà Nội, Lạng Sơn,...) cao nhất là 18 tỷ đồng (Quỹ BVMT Tây Ninh cho dự án Nhà máy xử lý nước thải cụm công nghiệp Tân Hội 1).
Một số thông tin cụ thể về kết quả hoạt động của một số Quỹ BVMT địa phương như sau:
- Quỹ BVMT Hà Nội, là một trong số tổ chức Quỹ địa phương được thành lập sớm sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 được ban hành, kể từ khi thành lập, đến nay Quỹ BVMT Hà Nội đã hoạt động ổn định và ngày càng phát triển trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp sản xuất giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đến năm 2018, Quỹ đã cho 43 dự án vay hơn 306,8 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi để xử lý môi trường. Trong đó tập trung nhiều nhất là các dự án thu gom, vận chuyển xử lý rác thải, nước thải…
- Quỹ BVMT Bình Dương, trong năm 2020, quỹ đã xét duyệt và ký hợp đồng tín dụng đối với 11 dự án với tổng số tiền là 89.138 triệu đồng, đạt 162% kế hoạch năm. Trong công tác giải ngân, tính đến nay, quỹ đã tiến hành giải ngân cho 13 dự án với tổng số tiền là 85 tỷ đồng, đạt 202% kế hoạch năm. Đối với công tác tiếp nhận ký quỹ, tính đến nay, Quỹ BVMT Bình Dương đã tiếp nhận tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản đối với 52 dự án với tổng số tiền là 12,9 tỷ đồng, đạt 152% kế hoạch năm.
- Quỹ BVMT Đồng Nai, trong năm 2020, quỹ đã thẩm định và duyệt cho vay đối với 7 dự án với tổng vốn hơn 204 tỷ đồng. Các dự án, công trình vay vốn đều thuộc danh mục dự án ưu tiên theo quyết định của UBND tỉnh. Năm 2021, vốn cho vay của quỹ là 74 tỷ đồng, trong đó có 54 tỷ đồng từ năm 2020 chuyển sang và 20 tỷ đồng tỉnh cấp mới. Ngoài ra, quỹ dự kiến thu thêm được khoảng 11,2 tỷ đồng từ các nguồn khác nhau. Tại Đồng Nai, hầu hết các khu xử lý nước thải công nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh; nhà máy xử lý chất thải và HTX (hợp tác xã) hoạt động dịch vụ môi trường đều đã và đang vay vốn từ Quỹ BVMT để xây dựng hạ tầng, mua trang thiết bị, đầu tư công nghệ xử lý chất thải. Ví dụ, dự án Khu xử lý chất thải sinh hoạt và công nghiệp ở huyện Vĩnh Cửu của Công ty CP Môi trường Sonadezi đã vay hơn 150 tỷ đồng từ Qũy BVMT Đồng Nai. Một số HTX làm dịch vụ vệ sinh môi trường như: HTX Thương mại dịch vụ Phú Lợi đã vay hơn 10 tỷ đồng từ Quỹ BVMT để nâng cấp, mua mới hơn 10 xe tải chuyên dụng chở rác (loại từ 2,5-10 tấn), đảm bảo tiêu chí xe chở rác thải, thực hiện thu gom 100% rác sinh hoạt trên địa bàn 2 huyện Tân Phú và Định Quán; HTX Dịch vụ và vệ sinh môi trường Thành Lâm (huyện Trảng Bom) từ vốn vay đã mua được 11 xe chuyên dụng chở rác đảm bảo tiêu chí xe chở rác thải, tạo việc làm ổn định cho hơn 60 lao động…
- Quỹ BVMT tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, tính đến cuối năm 2020, Quỹ BVMT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang quản lý nguồn vốn hoạt động là 134 tỷ đồng, trong đó: Vốn cho vay (dư nợ) 72 tỷ đồng, vốn hoạt động còn lại 62 tỷ đồng. Mức lãi suất vay vốn của Quỹ BVMT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được điều chỉnh giảm qua các thời kỳ từ 5,4%/năm xuống còn 3,6%/năm và 2,6%/năm (các hộ thu gom rác 1,3%/năm đến 2,0%/năm) đã thực sự thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn đầu tư dự án bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Tính đến năm 2020, Quỹ BVMT đã hỗ trợ tài chính cho 53 dự án với tổng số tiền gần 147 tỷ đồng. Trong đó: 30 dự án Quỹ cho vay đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống xử lý nước thải, khí thải với số tiền là 73,9 tỷ đồng (dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải chế biến thủy hải sản với công suất 500m3/ngày đêm của Xí nghiệp Chế biến Hải sản thuộc Công ty CP Thủy sản và Xuất nhập khẩu Côn Đảo được tiếp cận nguồn vốn vay hơn 6 tỷ đồng từ Quỹ BVMT đã giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xây dựng hệ thống nước thải, từ đó giảm áp lực về môi trường trong quá trình sản xuất; Công ty TNHH Môi trường Quý Tiến được vay 36 tỷ đồng (thời hạn 10 năm) để di dời cơ sở xử lý chất thải hiện hữu vào Khu xử lý chất thải tập trung Tóc Tiên (TX. Phú Mỹ); Công ty TNHH chăn nuôi Việt Thành (huyện Xuyên Mộc) được vay 4 tỷ đồng để xây dựng hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi công suất 270m3/ngày đêm; Công ty TNHH Nguyễn Huỳnh (huyện Long Điền) được vay 1 tỷ đồng để đầu tư xe ép rác chuyên dụng...); 04 dự án di dời các cơ sở xử lý chất thải và thiết bị lò đốt với số tiền cho vay là 57,9 tỷ đồng; 19 dự án còn lại thuộc các lĩnh vực đầu tư xe gom rác, xe hút bụi, xe ép rác, hệ thống điện năng lượng mặt trời và lĩnh vực khác với số tiền 14,9 tỷ đồng.
Đánh giá chung kết quả hoạt động của hệ thống các Quỹ BVMT ở trung ương và địa phương cho thấy, hệ thống các Quỹ BVMT đã bước đầu phát huy được vai trò, tác dụng và hiệu quả trong việc hỗ trợ tài chính cho các dự án, chương trình, hoạt động bảo vệ môi trường. Thông qua hoạt động chủ chốt là cho vay quay vòng vốn, nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các quỹ bảo vệ môi trường có thể hỗ trợ được cho nhiều dự án, hoạt động bảo vệ môi trường, góp phần giải quyết được một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay là do các doanh nghiệp thiếu hụt nguồn vốn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là các nguồn vốn ưu đãi, các nguồn tài trợ không hoàn lại do đa phần các dự án liên quan đến lĩnh vực môi trường có chi phí đầu tư lớn, lợi nhuận ít, thu hồi vốn lâu. Nếu không có các nguồn vốn vay lãi suất ưu đãi thì rất khó để thực hiện. Chính vì vậy, hiệu quả về môi trường quan trọng và nổi bật nhất của hệ thống Quỹ BVMT đó là thông qua các hoạt động cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay vốn cho các dự án để đầu tư cho các hạng mục công trình BVMT, cho hoạt động dịch vụ bảo vệ môi trường đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tuân thủ các quy định pháp luật về BVMT trong việc đầu tư các công trình BVMT để xử lý chất thải (nước thải, khí thải, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại); góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp và chất thải rắn sinh hoạt. Bên cạnh hoạt động hỗ trợ vốn vay, còn có hoạt động khác cũng có kết quả nổi bật, có ý nghĩa đối với lĩnh vực môi trường và khai thác khoáng sản đó là hoạt động đăng ký ký Quỹ Cải tạo phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản, hoạt động thu phí lệ phí bán/chuyển chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs) đối với các dự án đầu tư theo Cơ chế phát triển sạch (CDM)….
Bên cạnh hiệu quả về môi trường, hoạt động của hệ thống Quỹ BVMT cũng đã có những đóng góp đối với phát triển kinh tế - xã hội: Hệ thống Quỹ BVMT ở trung ương và địa phương đã góp phần giúp giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, huy động được nguồn lực xã hội hóa, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân giảm chi phí trong đầu tư hoạt động bảo vệ môi trường để có thể tập trung nguồn vốn cho hoạt động sản xuất. Bên cạnh đó, việc tổ chức, cá nhân vay vốn đầu tư để tham gia hoạt động xã hội hóa bảo vệ môi trường như thu gom vận chuyển rác tại các huyện, ngoài đảm bảo vệ sinh môi trường cũng đã tạo nguồn thu nhập cho chủ đầu tư và việc làm cho người lao động tại địa phương.
Các Quỹ BVMT đã góp phần tích cực vào quá trình đồng bộ hóa các công cụ tài chính, chính sách của nhà nước, hiện thực hóa các cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động vẫn còn bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc như: Cơ sở pháp lý cho mô hình tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT địa phương còn chưa thống nhất; nguồn lực tài chính bố trí cho hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và bố trí cho chính sách tín dụng đối với lĩnh vực này còn tương đối hạn hẹp trong khi nguyên tắc hoạt động của Qũy BVMT là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, lãi suất cho vay thấp, thời hạn vay kéo dài, do đó, nhu cầu vay vốn khá cao. Trong khi đó, việc huy động nguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho lĩnh vực bảo vệ môi trường còn hạn chế; một số Quỹ có quy mô, nguồn lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, nhân sự còn hạn chế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện, nhưng thực sự hoạt động của một số Quỹ vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Việc xác định đối tượng được nhận hỗ trợ từ Quỹ tại các địa phương trên đều “rộng rãi” giống nhau. Đó là mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động bảo vệ môi trường như đầu tư xử lý nước thải, tái chế chất thải, khắc phục ô nhiễm đều có thể được vay tiền từ Quỹ.
Các Quỹ đều xác định ưu đãi là hình thức quan trọng nhất, với lãi suất tối đa ở mức “không quá 50% lãi suất thương mại” (Bình Dương, Đồng Nai), hoặc “không thấp hơn 1/3 lãi suất thương mại” (Hà Nội), với quy mô không quá 70% giá trị dự án, trong khoảng thời gian từ 3 năm (Hà Nội), tới 5 năm (Bình Dương), thậm chí là 7 năm (Thành phố Hồ Chí Minh). Các Quỹ cũng xác định sẽ “tài trợ không hoàn lại” cho các dự án, nhưng không nói rõ đối tượng cụ thể và quy mô cho vay, ngoại trừ Hà Nội khẳng định “không quá 50% giá trị dự án”.
Do chưa có văn bản hướng dẫn chung, nên quá trình hoạt động của Quỹ BVMT địa phương chủ yếu dựa vào các văn bản quy định tổ chức, hoạt động do UBND tỉnh ban hành và một số văn bản liên quan đến hoạt động của Quỹ nằm rải rác trong các văn bản pháp lý của Nhà nước. Vì thế, các Quỹ địa phương hoạt động không tập trung, thiếu thống nhất, hiệu quả chưa cao.
Ngoài ra, chế độ quản lý tài chính của các Quỹ địa phương cũng chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất. Vì vậy, chế độ tiền lương, tiền công cho người lao động, cán bộ của Quỹ chưa được áp dụng thống nhất; có địa phương áp dụng theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập, có địa phương áp dụng như Công ty TNHH một thành viên. Những hạn chế này khiến cho hoạt động của Quỹ BVMT gặp nhiều trở ngại như: quyền lợi và chế độ của người lao động trong Quỹ không được đảm bảo ổn định; Quỹ không được hưởng chế độ miễn thuế thu nhập từ các hoạt động có thu do thực hiện nhiệm vụ tài chính như các đơn vị tài chính Nhà nước khác, trong đó có Quỹ BVMT Việt Nam…
4. Kiến nghị, giải pháp
Để khắc phục những hạn chế trên, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Quỹ BVMT, thời gian tới cần xem xét có các giải pháp sau:
- Sớm xem xét, ban hành hệ thống văn bản pháp lý nhằm thống nhất mô hình, tổ chức hoạt động, cơ chế tài chính của Quỹ BVMT từ trung ương đến địa phương. Hiện nay, để hướng dẫn triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 1 năm 2022 hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật, trong đó có quy định các nội dung liên quan đến nguồn vốn hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam và Quỹ BVMT cấp tỉnh. Tuy nhiên, cần sớm ban hành quy định về mô hình tổ chức hoạt động của Quỹ BVMT cấp tỉnh (do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, ban hành theo quy định tại Khoản 2, Điều 151 của Luật) để thống nhất hoạt động của các Quỹ BVMT cấp tỉnh.
- Các Quỹ cần nghiên cứu, xem xét mở rộng đối tượng vay vốn để, giải quyết hợp lý bài toán Cung - Cầu: hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng và chủ yếu trong hoạt động của các Quỹ BVMT hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động này đang vấp phải nghịch lý: Người muốn vay thì không đáp ứng đủ điều kiện, người đủ điều kiện thì không muốn vay.
Sở dĩ xảy ra nghịch lý này là do, với nguồn vốn ít ỏi, các Quỹ BVMT thường rất thận trọng trong khâu “chọn mặt gửi vàng”; thường có những quy định rất chặt chẽ về đối tượng cho vay, cũng như những yêu cầu về tài sản đảm bảo. Doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực môi trường cần chi phí rất lớn, thời gian hoàn vốn dài, chính sách tín dụng phức tạp... Vì vậy, các doanh nghiệp có đủ tiềm lực sẽ tự mình đầu tư hoặc tìm đến những cơ chế tín dụng khác với nhiều thuận lợi và ưu đãi hơn cơ chế vay vốn từ Quỹ BVMT. Còn đối với các doanh nghiệp thiếu tiềm lực, cần vốn vay, thường không đáp ứng được các chính sách tín dụng mà Quỹ đặt ra.
- Các Quỹ cần tiếp tục mở rộng các hoạt động tuyên truyền, tìm kiếm, thuyết phục, khuyến khích các doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chuẩn tham gia vay vốn. Đồng thời, nghiên cứu, có giải pháp ký kết các thỏa thuận rằng buộc đối với các doanh nghiệp đã vay vốn, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, buộc thi hành nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp khó trả nợ….
5. Kết luận
Hệ thống Quỹ BVMT trong thời gian qua đã trở thành một trong số công cụ kinh tế quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường góp phần hiệu quả trong việc đầu tư xử lý, cải thiện ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thời gian qua, vẫn còn một số bất cập, hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động của Quỹ, cũng như các hạn chế trong công tác tổ chức, triển khai thực hiện, nên hiệu quả hoạt động của Quỹ chưa thực sự đạt được như mong muốn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ trong thời gian tới, cần sớm ban hành quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động, cơ chế tài chính đối với Quỹ BVMT Việt Nam; quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về tổ chức và hoạt động, cơ chế tài chính đối với Quỹ BVMT cấp tỉnh cho phù hợp với các quy định của Điều 158, 159, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 1 năm 2022 hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật để có căn cứ pháp lý tiếp tục duy trì, hoàn thiện hoạt động của hệ thống Quỹ BVMT, đồng thời, bên cạnh các giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách của Chính phủ, các Quỹ cần chủ động triển khai các giải pháp khác để nâng cao hiệu quả môi trường, kinh tế xã hội của các Quỹ trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
- Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo vệ môi trường 2014.
- Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật Bảo vệ môi trường 2020.
- Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 1 năm 2022 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020.
- Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg, ngày 26/06/2002, .thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Báo cáo kết quả hoạt động Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2018.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), Báo cáo kết quả hoạt động Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2019.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Báo cáo kết quả hoạt động Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020.
- Thời báo Tài chính Việt Nam, số tháng 7/2018.
Lê Minh Toàn
Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, Tôn Thất Thuyết, Cầu Giấy, Hà Nội