Thỏa thuận Paris liệu có đủ mạnh để đảo chiều biến đổi khí hậu?
Sau 5 năm kể từ khi được ký kết nhưng Thỏa thuận Paris vẫn khiến nhiều người hoài nghi về khả năng ngăn chặn cuộc khủng hoảng khí hậu toàn cầu.
Dù không nhiều tiến bộ như mong đợi, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng kể từ khi đạt được Thỏa thuận Paris, thế giới đã có một số thay đổi quan trọng như: Giá năng lượng gió và mặt trời giảm mạnh, các định chế tài chính lớn rời xa than đá, các quốc gia bắt đầu chuyển sang ô tô điện và cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 trong vòng vài thập kỷ tới.
Tổng giám đốc Viện Năng lượng & Tài nguyên (TERI) kiêm thành viên Hội đồng thủ tướng về biến đổi khí hậu của Ấn Độ Ajay Mathur đánh giá: “Tôi ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thế giới kể từ năm 2015. Ấn Độ cũng cam kết ít nhất 40% công suất phát điện sẽ là nhiên liệu không hóa thạch vào năm 2030… 5 năm qua đi, điều đã xảy ra là điện mặt trời hiện là loại điện rẻ nhất ở Ấn Độ. Hy vọng một vài năm tới, chúng ta sẽ đạt đến điểm mà năng lượng mặt trời cộng với lưu trữ rẻ hơn điện than. Đây là một vấn đề lớn. Không chỉ Ấn Độ, nó đang diễn ra ở khắp mọi nơi”.
Nhưng vẫn còn không ít trở ngại
Dù vậy, nhiều ý kiến cho rằng Thỏa thuận vẫn có một số tồn tại. Nhược điểm lớn nhất của Thỏa thuận Paris là bản chất tự nguyện: “Lượng khí thải toàn cầu phải giảm một nửa vào năm 2030. Liệu Thỏa thuận Paris có đủ mạnh mẽ để thúc đẩy vấn đề này?”, Tasneem Essop, người đứng đầu phái đoàn của WWF tham dự cuộc đàm phán Paris và hiện là giám đốc điều hành của Mạng lưới Hành động Khí hậu (CAN) chia sẻ.
Thành công thực sự của Thỏa thuận cho đến nay vẫn chỉ là tác động hối thúc. Essop cho rằng “mọi người đều biết về Thỏa thuận Paris. Thỏa thuận này hối thúc các chính phủ, khu vực tư nhân. Đó chính là chất xúc tác: Cho dù đối với các cam kết hay tham chiếu trong các bài phát biểu được đưa ra thì Thỏa thuận Paris vẫn chỉ là Thỏa thuận Paris. Theo một cách nào đó, nó đã tập trung và chú ý đến vấn đề khí hậu”.
Một trong những trở ngại nữa là vấn đề tài chính khí hậu – khoản tiền được các nước giàu hứa hỗ trợ những nước nghèo hơn để phát triển theo hướng carbon thấp và đối phó với biến đổi khí hậu. “Các nước phát triển đã không huy động được 100 tỉ USD cho các nước đang phát triển như đã hứa cách đây 5 năm”, theo chủ tịch Quỹ Năng lượng Trung Quốc Zou Ji và thất bại này ảnh hưởng đến lòng tin chính trị giữa các nước.
Báo cáo gần đây của Oxfam cho thấy các nước giàu cung cấp trung bình hàng năm 59,5 tỉ USD tài chính khí hậu trong giai đoạn 2017 và 2018, phần lớn là các khoản cho vay mặc dù OECD đưa ra con số là gần 75 tỉ USD. “Vấn đề là nếu thậm chí không thể đạt 100 tỉ đô la thì làm sao chúng ta có thể tin tưởng các nước phát triển khi nói về việc huy động hàng nghìn tỉ USD cần thiết để thực sự biến chuyển đổi này thành hiện thực”, Dagnet nói.
Lượng khí thải CO2 vẫn không ngừng tăng
Thực tế khắc nghiệt đã làm rõ những thách thức lớn đối với các mục tiêu mà các bên tham gia đã thống nhất trong Thỏa thuận khí hậu Paris 2015. Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới, nồng độ CO2 trong khí quyển toàn cầu do phát thải đã tăng từ 400 phần triệu (ppm) vào năm 2015 lên 410ppm chỉ 4 năm sau đó. Xu hướng này được cho là chủ yếu bởi các nền kinh tế mới nổi ở châu Á, khi các ngành năng lượng truyền thống vẫn được khai thác tối đa. Đáng chú ý, một báo cáo mới đây của Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) cho thấy, lượng khí thải đang trên đà tăng này có nguy cơ khiến nhiệt độ toàn cầu vượt hơn 3 độ C so với mức tiền công nghiệp. Điều này được cho chỉ có thể bị ngăn chặn một khi thế giới giảm sản lượng nhiên liệu hóa thạch 6% mỗi năm trong thập kỷ tới, nhưng hầu hết kế hoạch đến năm 2030 của các quốc gia tham gia không phù hợp với mục tiêu này.
Trong khi đó, biểu hiện của biến đổi khí hậu đang gia tăng nhanh chóng và ngày một nghiêm trọng hơn, khi chỉ riêng trong năm 2020: Các vụ cháy rừng kinh hoàng ở Australia và California (Mỹ); các đợt nắng nóng kỷ lục ở châu Âu, châu Á và cả Bắc Cực; lũ lụt chết người ở châu Phi, châu Á và Trung Tây nước Mỹ; các trận siêu bão xuất hiện đến gần cuối năm… Nguy hiểm hơn, vào năm 2020, khi khủng hoảng khí hậu đến cùng với đại dịch Covid-19 đã làm tăng thêm tác động bất bình đẳng vốn có đối với các cộng đồng bị thiệt thòi và những người sống trong cảnh nghèo đói trên khắp thế giới.
Cuối cùng là sự vắng bóng trong cam kết từ hàng không và vận tải biển - 2 ngành hiện chiếm khoảng 5 - 6% tổng lượng khí thải toàn cầu. Các dự thảo ban đầu của Thỏa thuận Paris 2015 đã kêu gọi các cơ quan của Liên Hợp quốc, bao gồm Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế và Tổ chức Hàng hải Quốc tế cùng đàm phán thỏa thuận khí hậu, nhưng cuối cùng các tổ chức này đã không thể gật đầu với giới hạn 1,5, hay thậm chí mức 2 độ C.
Tất cả những thực tế nghiệt ngã này đang là bài toán hóc búa đối với nhiều quốc gia. Hy vọng từ Thỏa thuận Paris 5 năm tuổi vẫn còn đó, nhưng cũng đã đặt ra nhiều câu hỏi, rằng là liệu Thỏa thuận Paris có đủ mạnh để đảo chiều biến đổi khí hậu, hay cần một cơ chế mạnh mẽ hơn để “làm nguội” Trái Đất?
Tổng cộng có 45 quốc gia trình bày kế hoạch tăng cường khí hậu và 24 quốc gia đưa ra cam kết mới, bao gồm cam kết của Phần Lan là đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2035 và Áo vào năm 2040. Vương quốc Anh cam kết cắt giảm 68% phát thải vào năm 2030 so với năm 1990 cũng như lời hứa ngừng ủng hộ các dự án dầu khí ở nước ngoài. Trong khi đó, Ấn Độ cho biết sẽ sớm tăng gấp đôi mục tiêu năng lượng tái tạo, còn Pakistan tuyên bố ngừng xây dựng điện than mới và tạo ra 60% điện năng từ các nguồn tái tạo vào năm 2030.
Trung Quốc gần đây đặt ra kế hoạch đạt được mức độ trung tính carbon vào năm 2060 và công bố các cam kết mới vào năm 2030 nhằm giảm hơn 65% cường độ carbon (lượng phát thải CO2 trên một đơn vị GDP) so với mức năm 2005, tăng tỉ trọng nhiên liệu không hóa thạch lên khoảng 25% trong tiêu thụ năng lượng sơ cấp, mở rộng độ che phủ của rừng làm bể chứa carbon, và tăng gấp đôi công suất năng lượng mặt trời và gió lên 1.200 GW. Tuy nhiên, Trung Quốc không cam kết hạn chế sản xuất điện than.
Minh Phương