Góc nhìn đa chiều, có giá trị về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
Các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý… đã chia sẻ, thảo luận góc nhìn đa chiều, có giá trị về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững ở Việt Nam.
Vai trò đầu mối củaBộ Kế hoạch và Đầu tư
Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Để thúc đẩy tăng trưởng xanh (TTX), phát triển bền vững, với vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia về TTX, cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo quốc gia, bên cạnh việc tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các nội dung liên ngành, liên vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tích cực triển khai các nhiệm vụ cụ thể sau:
(1) Chủ trì hướng dẫn xây dựng Kế hoạch hành động TTX cấp ngành và địa phương, hướng dẫn tích hợp TTX trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các cấp, các ngành nhằm giúp các bộ, ngành, địa phương thống nhất về phương pháp luận và cách thức tiếp cận trong cụ thể hóa các mục tiêu TTX.
(2) Tiếp tục tăng cường xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan về đầu tư - doanh nghiệp, chẳng hạn như: xây dựng cơ chế ưu đãi cụ thể đối với các doanh nghiệp tham gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ xanh; chính sách về khu công nghiệp sinh thái, áp dụng nguyên tắc kinh tế tuần hoàn trong xây dựng, quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế hay thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo…
(3) Nghiên cứu xây dựng “Lộ trình hiện thực hóa các mục tiêu TTX gắn kết với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng trung hòa carbon”. Theo đó, các mục tiêu TTX sẽ được xác định cụ thể cả về định tính và định lượng, dựa trên phân tích đa tiêu chí, mô hình hóa các kịch bản phát triển, đánh giá đầy đủ về tác động kinh tế - xã hội - môi trường hướng tới đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050.
(4) Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá, báo cáo thực hiện Chiến lược và các công cụ quản lý hỗ trợ thực hiện, đặc biệt là xây dựng bộ chỉ tiêu quốc gia về TTX, xây dựng và triển khai thí điểm Chỉ số TTX tổng hợp nhằm đánh giá mức độ thực hiện TTX trên phạm vi toàn quốc; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí phân loại xanh quốc gia; xác định những nhiệm vụ, dự án TTX trọng điểm.
(5) Thúc đẩy huy động nguồn lực, điều phối các nguồn tài trợ trong và ngoài nước, nguồn tài chính khí hậu. Đây là một nhiệm vụ đóng vai trò quan trọng hàng đầu để hiện thực hóa TTX trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.
Nhận diện thách thức và đề xuất giải pháp
PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Khóa XV
Bên cạnh những nỗ lực thực hiện kinh tế biển xanh, phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta đối mặt với những khó khăn, thách thức chủ yếu:
Một là, đây là vấn đề mới, nên nhận thức về tăng trưởng xanh lam và kinh tế biển xanh của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ, thậm chí vẫn rất khác biệt.
Hai là, các ngành, các địa phương chưa chuẩn bị đủ điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển từ “nâu” sang “xanh” trong điều kiện cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và đảo còn yếu kém, lạc hậu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Ba là, thiếu các số liệu và thông tin khoa học, công nghệ về nguồn vốn tự nhiên biển, bao gồm các hệ sinh thái biển làm cơ sở cho việc triển khai các hành động cụ thể liên quan tới phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta.
Bốn là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Chủ yếu vẫn ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài nguyên biển còn ít được chú trọng.
Năm là, môi trường biển bị ô nhiễm, đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái biển bị suy thoái, chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển, cũng như trên các đảo có người sinh sống đổ vào biển ngày càng nhiều.
Sáu là, nguồn lợi hải sản giảm sút, các quần đàn cá có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển liên quan đến biến đổi khí hậu, xu thế tương tác sông-biển ở vùng cửa sông thay đổi đáng kể so với trước đây.
Trước thực trạng trên, để phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta, cần bảo vệ cảnh quan biển, loại bỏ các quy định, chính sách đầu tư phát triển thiếu thân thiện với môi trường. Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý hiệu quả rác thải nhựa.
Mặt khác, cần thúc đẩy kinh tế biển xanh, kinh tế tuần hoàn thông qua việc loại bỏ chất thải, sử dụng tài nguyên quay vòng, trả lại thiên nhiên các giá trị vốn có…
Nhà nước cũng cần quan tâm phục hồi và phát triển cơ sở hạ tầng tự nhiên ven biển, trên đảo thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Khuyến khích phát triển năng lượng biển tái tạo; đô thị biển thông minh; thủy sản bền vững; dược liệu biển... Ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực biển. Phát triển kinh tế biển xanh dựa vào hệ sinh thái và cộng đồng, cải thiện mối quan hệ đối tác của các bên liên quan.
Giải pháp thuận lợi hóa chuyển đổi số cho doanh nghiệp
Bà Bùi Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành khung quy định pháp lý cùng nhiều chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng các giải pháp công nghệ mới. Đây là những tiền đề và nền tảng quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng, chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh của mình đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Để thực hiện thành công công cuộc chuyển đổi số mô hình kinh doanh, sớm đạt được các mục tiêu về năng suất, chất lượng, hiệu quả hướng tới nền sản xuất xanh, tuần hoàn, bền vững, các doanh nghiệp cần chủ động ứng dụng các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 như: Cloud Computing, IoT, Công nghệ Robotic, Công nghệ thực tế ảo VR… vào các hoạt động của doanh nghiệp, tận dụng các yếu tố công nghệ để thay đổi cách thức vận hành, chuyển sang mô hình sản xuất kinh doanh xanh, bền vững.
Một nhân tố rất quan trọng là nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của chuyển đổi số trong toàn doanh nghiệp. Nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của chuyển đổi số trong doanh nghiệp quyết định sự thành bại của quá trình chuyển đổi số.
Chuyển đổi số là sự thay đổi quy mô lớn, đòi hỏi phải điều chỉnh cấu trúc, quy trình hoặc văn hóa kinh doanh cơ bản song mang lại tác động tích cực lớn đến sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp.
Đồng thời nâng cao năng lực quản trị nội bộ để chuẩn bị đủ điều kiện thực hiện chuyển đổi. Theo đó, mô hình quản trị cần được tổ chức một cách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu quản trị của từng thời kỳ. Doanh nghiệp cần chuẩn hóa quy trình kinh doanh trước khi ứng dụng công nghệ chuyển đổi số.
Đối với giải pháp về nguồn nhân lực, chuyển đổi số cần có nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể làm chủ công nghệ mới, phục vụ cho việc triển khai chuyển đổi số và đó cũng là điều mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn. Doanh nghiệp cần chuẩn bị nguồn nhân lực nội bộ có chuyên môn tốt để sẵn sàng cho quá trình chuyển đổi số.
5 giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến nền kinh tế xanh
PGS, TS. Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Thứ nhất, về nhận thức, ông Chinh nhấn mạnh, giải pháp đầu tiên và rất quan trọng đó là cần luận giải rõ nội hàm của các khái niệm và định nghĩa “kinh tế tuần hoàn” và “kinh tế xanh”, từ đó tuyên truyền và phổ biến nhân rộng cho toàn xã hội.
Thứ hai, về tiêu chí, kinh tế tuần hoàn có tiêu chí của kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh có tiêu chí của kinh tế xanh, giữa các tiêu chí này có sự giống nhau và khác nhau thế nào?
Thứ ba, về cơ chế chính sách, cần tiếp tục khắc phục sự bất cập trong các chính sách ban hành liên quan đến kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh. Chúng ta đang triển khai đồng thời “chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh” và “đề án kinh tế tuần hoàn”, hai nội dung này phải có sự bổ sung và là tiền đề cho nhau.
Thứ tư, đặt trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nhất là thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Do vậy, việc thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn đối với các sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng hóa xuất khẩu vào các thị trường đòi hỏi chất lượng cao, như: EU, Mỹ, Nhật, Australia…, thực hiện kinh tế tuần hoàn trong quá trình sản xuất chính là đạt các tiêu chí môi trường và các tiêu chí khác, sản phẩm xuất khẩu thuận lợi cho những tiêu chí xanh có quy định về nhãn xanh, nhãn sinh thái.
Thứ năm, sự gắn kết của kinh tế tuần hoàn với các tiêu chí xanh khác để hướng đến nền kinh tế xanh.
6 trọng tâm giải pháp phát triển nông nghiệp xanh theo hướng bền vững
GS, TS. Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Để phát triển nông nghiệp xanh theo hướng bền vững trong thời gian tới, Việt Nam phải có những nỗ lực rất lớn, không chỉ từ phía Chính phủ, mà cả khối tư nhân gồm các doanh nghiệp và người sản xuất trực tiếp cùng tham gia thực hiện. Theo đó, một số trọng tâm cần thực hiện như sau:
Bà Nguyễn Thị Như Quỳnh, Đảng ủy phường Xuân Tăng, TP.Lào Cai (Lào Cai) đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh tại tỉnh Lào Cai, gồm: (1) Bổ sung xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp hàng hóa, trong đó tập trung giải quyết vấn đề về tích tụ đất đai, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Các địa phương căn cứ tiềm năng, lợi thế và điều kiện thực tế để phát triển các sản phẩm đặc sản của địa phương nhằm phát huy bản sắc gắn với xây dựng nông thôn mới theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP); (2) Tổ chức nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo phát triển bền vững thông qua đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chọn tạo, chuyển giao và ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi gắn với nhu cầu thị trường; (3) Xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại gắn với đô thị hóa, giữ gìn văn hóa truyền thống; (4) Bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan, thích ứng biến đổi khí hậu thông qua phát triển cảnh quan nông thôn gắn với làng sinh thái, phát huy lợi thế từng địa phương, đảm bảo xanh, sạch, đẹp, thân thiện và hài hòa với thiên nhiên, đồng thời, xây dựng hệ sinh thái kinh tế nông thôn.
Thứ nhất, mâng cao hiệu quả sử dụng đất, nước, hạn chế suy thoái. Tái cơ cấu cây trồng, vật nuôi để hạn chế sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường đất, nước. Sử dụng hợp lý các yếu tố đầu vào, giảm thiểu sử dụng hoá chất.
Thứ hai, cải thiện hệ thống giao thông, đặc biệt là giao thông đường thuỷ. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở chế biến và hệ thống kho chứa.
Thứ ba, đào tạo theo hướng chuyên sâu hơn, đặc biệt là đào tạo công nhân lành nghề.
Thứ tư, tập trung phát triển nghiên cứu cơ bản về công nghệ cao, công nghệ chính xác và công nghệ thông tin trong nông nghiệp, chuyển khoa học công nghệ phục vụ nâng cao năng suất sang chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ năm, quy hoạch lại ngành theo hướng chuyên canh, tập trung, phát huy lợi thế vùng. Phát triển hệ thống liên kết sản xuất có hợp đồng, hệ thống bảo hiểm.
Cuối cùng, để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông sản, cần đẩy mạnh hệ thống chứng nhận chất lượng sản phẩm/minh bạch thông tin (liên kết sản xuất). Thúc đẩy sàn giao dịch điện tử trên nền tảng minh bạch thông tin và truy xuất nguồn gốc. Tăng cường năng lực chế biến gắn với xây dựng vùng nguyên liệu (gia tăng giá trị và vượt qua hàng rào kỹ thuật). Tận dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp theo hướng phát triển nền nông nghiệp tuần hoàn và chế biến sâu các phụ phẩm nông nghiệp.
Giải pháp bao trùm cho chuyển dịch năng lượng
TS Nguyễn Ngọc Hưng, Trưởng phòng Phòng Kinh tế năng lượng, Viện Năng lượng, Bộ Công Thương
Đặc biệt, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có cam kết mạnh mẽ tại COP26 là đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ này. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cam kết giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030 so với năm 2010; Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch. Trong bối cảnh đó, việc chuyển đổi năng lượng đóng vai trò quan trọng.
Đại diện Viện Năng lượng cũng đưa ra các giải pháp chuyển dịch năng lượng. Theo đó, giải pháp bao trùm vẫn là đảm bảo an ninh năng lượng, như: Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác năng lượng sơ cấp; tận dụng tối đa tài nguyên năng lượng trong nước, tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá trong cung cấp năng lượng; ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu năng lượng sơ cấp cho sản xuất điện và các mục đích khác; nâng cao khả năng dự trữ đáp ứng mục tiêu dự trữ xăng dầu; thực hiện dự trữ than phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho các hoạt động sản xuất.
Hai là, theo đó cần giảm nhu cầu sử dụng năng lượng, cần thực hiện đồng bộ trong các tòa nhà dân dụng, tòa nhà công nghiệp.
Ba là, tăng cường điện hóa trong các ngành kinh tế. Tăng tỷ trọng các phương tiện/thiết bị sử dụng điện trong toàn bộ các ngành kinh tế.
Bốn là, phát triển điện lực. Theo đó, cần hạn chế xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới; phát triển với tỷ trọng hợp lý các nhà máy nhiệt điện khí có hiệu suất cao, tính linh hoạt cao; xây dựng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện hiện có.
Năm là, phát triển năng lượng tái tạo. Phát triển mạnh các loại hình điện năng lượng tái tạo, đặc biệt chú trọng phát triển điện gió ngoài khơi, điện mặt trời mái nhà, điện mặt trời lòng hồ, các dự án điện năng lượng tái tạo phục vụ nhu cầu điện tại chỗ...
Sáu là, phát triển nhiên liệu hydrogen và các nhiên liệu nguồn gốc hydrogen: Nhiên liệu hydrogen; nhiên liệu dựa trên nguồn hydrogen: Amonia (NH3); nhiên liệu tổng hợp.
Bảy là, thu hồi, sử dụng và lưu giữ carbon (CCUS): Thu hồi CO2 trong sản xuất công nghiệp, nhà máy nhiệt điện và các quá trình sản xuất hydro từ than và khí tự nhiên; sử dụng CO2 trong sản xuất hoá chất, vật liệu xây dựng, hoạt động nông nghiệp, quá trình sản xuất nhiên liệu tổng hợp...; thực hiện các biện pháp lưu giữ CO2…
Sự cần thiết áp dụng CSI đối với doanh nghiệp
Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chủ tịch Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD)
Việc áp dụng Bộ chỉ số CSI sẽ góp phần mang lại nhiều lợi ích lớn cho doanh nghiệp thông qua đáp ứng các chỉ số cơ bản và theo các mức độ chỉ số nâng cao, từ đó giúp nâng cao hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp, góp phần tăng cường sự tin tưởng của khách hàng và nhà đầu tư. Từ đó được ghi nhận của các cơ quan chính phủ về thương hiệu doanh nghiệp bền vững và được người tiêu dùng, khách hàng, nhà đầu tư tin tưởng, đánh giá cao.
Bộ chỉ số CSI là công cụ hữu hiệu hỗ trợ doanh nghiệp lập báo cáo bền vững (BCBV). Cần thể chế hóa hoạt động lập BCBV để công bố và quản lý thông tin doanh nghiệp. BCBV đem lại lợi ích cho nhiều bên bao gồm cả doanh nghiệp, nhà quản lý, các nhà đầu tư và công chúng.
Theo GS, TS Nguyễn Hữu Ninh - Chủ tịch Hội đồng quản lý Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Môi trường và Phát triển (CERED), doanh nghiệp là xương sống của nền kinh tế, vì vậy cần tập trung hỗ trợ hệ sinh thái doanh nghiệp, đặc biệt là hệ sinh thái doanh nghiệp tuần hoàn và xanh. Hơn 90% doanh nghiệp sẵn sàng làm việc đó. Việt Nam là một trong những quốc gia phục hồi mạnh mẽ hậu Covid-19, vì vậy càng có đà đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xanh, bền vững.
Xây dựng cơ chế để tích hợp/lồng ghép các yêu cầu/báo cáo của các bộ ngành khác nhau vào BCBV để giảm chi phí và nguồn lực cho doanh nghiệp. Bộ chỉ số CSI tích hợp các chỉ số mang tính bao trùm, liên quan đến các lĩnh vực về bảo vệ quyền lợi của người lao động, cải thiện môi trường lao động, bảo vệ môi trường, và nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. BCBV của doanh nghiệp khi đó có nhiều thông tin liên quan tới các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, do đó, sẽ là nguồn thông tin tốt, sẵn có phục vụ công tác quản lý nhà nước.
Khi hoạt động lập BCBV trở thành yêu cầu bắt buộc, thì song hành với nó là hệ thống/chương trình giám sát việc thực hiện của các doanh nghiệp. Điều này yêu cầu phía Chính phủ có chương trình dài hạn về việc xây dựng cơ sở dữ liệu về BCBV của Việt Nam; thống nhất, chuẩn hóa báo cáo để việc xây dựng, cập nhật báo cáo không trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp, đối với cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ dễ tiếp cận, sử dụng dữ liệu.
Các doanh nghiệp cần tự nhận thức vai trò quan trọng của quá trình PTBV và BCBV. Việc công bố BCBV đang trở thành thông lệ quốc tế nhằm giúp các doanh nghiệp củng cố tăng cường mối hợp tác với các bên liên quan, với nhà đầu tư và cộng đồng, đồng thời giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý rủi ro kinh doanh, nâng cao khả năng thích nghi trong môi trường thay đổi nhanh chóng và cạnh tranh hiệu quả hơn trong môi trường kinh tế hội nhập quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc phân bổ nguồn lực và sắp xếp nhân sự dành cho hoạt động lập BCBV.
"Các doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu các thông tin liên quan đến việc lập BCBV. Hiện nay, VCCI là cơ quan đầu mối được giao chủ trì và thực hiện hướng dẫn về Bộ chỉ số CSI, các doanh nghiệp có thể liên lạc với VCCI và các chi nhánh của VCCI ở địa phương để tìm kiếm sự trợ giúp về kỹ thuật khi cần thiết", Chủ tịch VBCSD khuyến nghị.
Sự quyết tâm của lãnh đạo là rất quan trọng để doanh nghiệp phát triển bền vững
Ông Nguyễn Trung Anh, Tập đoàn PAN
Để định hướng phát triển bền vững lan tỏa đến tất cả nhân viên, từ năm 2017, PAN đã xây dựng Bộ nguyên tắc thực hành tốt để triển khai. Đồng thời, thường xuyên tổ chức đào tạo cho nhân viên ở đơn vị thành viên về phát triển bền vững; thực hiện giám sát và đánh giá hàng năm tại các đơn vị, trang trại… để xem có thực hiện đúng yêu cầu đề ra không và từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Có thể nói, PAN là một trong những tập đoàn đầu tiên xây dựng bộ chỉ số về phát triển bền vững. Đây là sự nỗ lực của ban lãnh đạo, đơn vị thành viên và mang lại nhiều kết quả tích cực. Điều này thể hiện qua việc PAN xuất khẩu hàng hóa sang hơn 40 quốc gia, thậm chí đến cả những thị trường khó tính nhất như: Nhật Bản, EU, Mỹ. Bên cạnh đó, PAN còn nhận được đầu tư từ những đối tác lớn như: IFC, SSI…
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, PAN cũng gặp nhiều thách thức liên quan đến nhận thức về vai trò của sự phát triển bền vững trong doanh nghiệp, chi phí đầu tư (cơ sở hạ tầng) cũng như yếu tố môi trường kinh doanh.
Kinh nghiệm thành công trên chặng đường phát triển bền vững của PAN cho thấy, tầm nhìn và sự quyết tâm của lãnh đạo là rất quan trọng để doanh nghiệp đi theo con đường phát triển bền vững. Quan trọng nữa là, tìm được đối tác đồng hành, chia sẻ với mình đi theo con đường phát triển đó. Cuối cùng là sự đồng lòng của nhân viên, người lao động.
Hội thảo đã chia sẻ nhiều nghiên cứu có giá trị
Bà Nguyễn Lệ Thủy, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Sau hơn 3 tiếng diễn ra Hội thảo, các nhà khoa học, các chuyên gia, các đại biểu tham dự Hội thảo đã chia sẻ nhiều nghiên cứu có giá trị, đồng thời thảo luận, gởi mở những giải pháp thiết thực từ kết quả nghiên cứu, góp sức cho Việt Nam thực thi thành công Chiến lược tăng trưởng xanh.
Trong thời gian chuẩn bị Hội thảo, Ban tổ chức nhận đã nhận được gần 100 bài nghiên cứu, bài viết của các nhà quản lý, các nhà khoa học, các chuyên gia, giảng viên từ khắp mọi miền đất nước. Ban tổ chức đã lựa chọn được 50 bài nghiên cứu chất lượng, để giới thiệu trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học, với mã số ISBN phát hành cùng Hội thảo.
Những kết quả thảo luận tại Hội thảo cũng như các bài nghiên cứu được giới thiệu trong Kỷ yếu Hội thảo sẽ cung cấp những luận cứ khoa học quý báu, những gợi mở có giá trị thực tiễn cho việc thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, góp phần vào thắng lợi của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Thay mặt Ban tổ chức bà Nguyễn Lệ Thủy xin trân trọng cảm ơn các diễn giả, các nhà khoa học, các chuyên gia… đã dành thời gian tham dự, chia sẻ tại Hội Thảo. Xin chân thành cảm ơn Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt, Tập đoàn Tân Hiệp Phát, Ngân hàng Quân Đội, Văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hỗ trợ Tạp chí tổ chức thành công Hội thảo khoa học này.
Quý bạn đọc vui lòng bấm vào đường link dưới đây để xem chi tiết các tham luận tại Hội thảo:
1. Tham luận của ông Lê Việt Anh
2. Tham luận của ông Nguyễn Chu Hồi
3. Tham luận của ông Nguyễn Hồng Sơn
4.Tham luận của ông Nguyễn Ngọc Hưng - Trần Kỳ Phúc
5. Tham luận của ông Nguyễn Quang Vinh
6. Tham luận của ông Nguyễn Thế Chinh
PV