Đề xuất gần 18.000 tỷ đồng xây tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu
Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 có chiều dài 53,7 km với tổng mức đầu tư 17.837 tỷ đồng. Dự án cũng được Chính phủ kiến nghị Quốc hội chuyển từ phương thức đầu tư PPP sang sử dụng vốn đầu tư công.
Vừa qua, Chính phủ đã có Tờ trình số 154/TT – CP gửi Quốc hội về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1.
Theo đó, Chính phủ kiến nghị Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 bằng nguồn vốn đầu tư công thay vì phương thức đầu tư đối tác công tư (PPP) như phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 1602/QĐ-TTg ngày 23/9/2021.
Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 có điểm đầu tại TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; điểm cuối tại TP. Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, với tổng chiều dài khoảng 53,7 km. Dự án được đề xuất đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 – 6 làn xe, giải phóng mặt bằng 6 – 8 làn xe theo quy mô quy hoạch.
Tờ trình số 154/TT – CP của Chính phủ nêu rõ, Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 có tổng mức đầu tư sơ bộ khoảng 17.837 tỉ đồng từ nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công và vốn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách các địa phương, nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021.
Theo đề xuất của Chính phủ, Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu năm 2022 sẽ được khởi công năm 2023 và cơ bản hoàn thành năm 2025. Theo đó, Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu chia thành 3 dự án thành phần: Dự án thành phần 1 (từ Km0 đến Km16) dài khoảng 16km trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 6.240 tỉ đồng; Dự án thành phần 2 (từ Km16 đến Km34+200, trong đó đoạn Km16+800 đến Km29+400 đi trùng với đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông) dài khoảng 18,2km trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 6.407 tỉ đồng; Dự án thành phần 3 (từ Km34+200 đến Km53+700) dài khoảng 19,5km trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 5.190 tỉ đồng.
Để đảm bảo Dự án cơ bản hoàn thành năm 2025, Chính phủ kiến nghị Quốc hội cho phép áp dụng các cơ chế, chính sách đã được Quốc hội chấp thuận tại Nghị quyết số 43/2022/QH15. Trong đó có 3 cơ chế chính sách liên quan đến chỉ định thầu, vật liệu xây dựng thông thường và phân cấp đầu tư dự án; áp dụng trình tự, thủ tục, thẩm quyền thẩm định và quyết định đầu tư các dự án thành phần tương tự dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2011 - 2025 đã được Quốc hội chấp thuận tại Nghị quyết số 44/2002/QH15; cho phép các địa phương bố trí ngân sách địa phương tham gia dự án.
Đồng thời, Tờ trình số 154/TT – CP cũng đề nghị Quốc hội giao Chính phủ tổ chức triển khai thực hiện dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả đầu tư theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng phương án thu phí để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách trung ương.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, Dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu là tuyến kết nối cao tốc TP. HCM – Long Thành – Dầu Giây và Bến Lức – Long Thành. Dự án ban đầu có chiều dài khoảng 70 km từ Biên Hòa đến Vũng Tàu.
Tuy nhiên, qua nhiều lần điều chỉnh thì đường cao tốc Biên Hòa – Vũng tàu chỉ còn 53,7 km tù Biên Hòa đến Km53+700 giao với QL56 thuộc TP. Bà Rịa. Còn hơn 16 km từ 56 đến điềm giao QL51B, QL51C – vòng xoay Cửa Lấp (TP. Vũng Tàu) không còn nằm trong dự án.
Mới đây, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thống nhất bố trí 670 tỷ đồng (từ nguồn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025) để tham gia cùng ngân sách Trung ương thực hiện giải phóng mặt bằng dự án thành phần 3 thuộc Dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu (giai đoạn 1).
Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu khi hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ với đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, cảng hàng không quốc tế Long Thành, phát huy tối đa tiềm năng của cảng biển Cái Mép – Thị Vải, đáp ứng nhu cầu vận tải; tạo dư địa, động lực phát triển không gian vùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, kết nối các trung tâm kinh tế, cảng biển; nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo động lực liên kết, thúc đẩy hợp tác và phát triển vùng.
Vũ Thanh - Thư Anh