An ninh nguồn nước cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị
Những năm gần đây, Việt Nam phải đối mặt tình trạng khan hiếm và suy giảm nguồn nước do khai thác quá mức ở nhiều nơi, tài nguyên nước đang ẩn chứa những yếu tố thiếu bền vững cho phát triển. An ninh nguồn nước là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.
Báo động an ninh nguồn nước tại Việt Nam
Hiện nay tại Nam Bộ, do dòng chảy thượng nguồn về Đồng bằng sông Cửu Long suy giảm, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long có xu thế gia tăng, các đợt xâm nhập mặn tăng cao ở cửa sông Cửu Long tập trung trong tháng 2 và kéo dài đến đầu tháng 3.
Nguyên nhân lượng nước về Đồng bằng sông Cửu Long suy giảm, ông Nguyễn Kiệt, trưởng phòng dự báo Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, cho biết từ ngày 5 đến 24/1, phía Trung Quốc cho bảo trì đập hồ chứa Cảnh Hồng và giảm lưu lượng xả ở mức 1.000m3/s.
Do đó từ nửa cuối tháng 1 đến cuối tháng 2, tổng lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mekong (tại trạm Kratie, Campuchia) về Đồng bằng sông Cửu Long ở mức thiếu hụt so với trung bình nhiều năm khoảng 5-15%.
Trong tháng 3 (rơi vào thời kỳ giữa và cuối tháng), các sông Vàm Cỏ, Cái Lớn xâm nhập mặn giảm dần, sau đó có xu hướng tăng lại. Dự báo phạm vi xâm nhập mặn (4g/l) sâu nhất mùa khô năm 2021 tại các cửa sông Cửu Long khoảng 50-75 km, trên các sông Vàm Cỏ từ 85-95 km, sông Cái Lớn từ 45-55 km.
Tình hình xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long năm nay phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mekong, triều cường và còn nhiều biến động trong thời gian tới. Các địa phương ở vùng đồng bằng Nam Bộ cần cập nhật kịp thời các thông tin dự báo để có những biện pháp chủ động phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn.
Cũng theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, từ tháng 3 đến 8, nguồn nước trên lưu vực sông khu vực Bắc Bộ thiếu hụt từ 20-30%, mức thiếu hụt cao hơn 30% xảy ra trên lưu vực sông Thao, hạ lưu sông Lô.
Giai đoạn tháng 6 đến tháng 8, trên các lưu vực sông khu vực Bắc Bộ xuất hiện các đợt lũ, đỉnh lũ trên các sông phổ biến ở mức báo động 1, báo động 2. Nguy cơ lũ quét và sạt lở đất xuất hiện sớm tại vùng núi khu vực Tây Bắc và Việt Bắc.
Câu chuyện thiếu nước và báo động an ninh nguồn nước ở Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng do các hoạt động của con người gây nên. Điển hình là vụ đổ trộm dầu thải ra khe núi gần Suối Trâm tại hai xã Phúc Minh và Phúc Tiến (huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình) vào cuối năm 2019. Vụ việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng trăm nghìn người dân Thủ đô Hà Nội. Sự cố này là “hồi chuông” cảnh báo cũng như đòi hỏi các cơ quan chức năng sớm có những giải pháp mang tính tổng thể bảo vệ an ninh nguồn nước quốc gia.
PGS.TS Trương Mạnh Tiến, Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam phân tích: Có nhiều người quan niệm sai lầm rằng, nguồn nước rất dồi dào, nhưng thực tế không phải vậy. Thực tế lượng nước mưa nhận được rất nhiều nhưng nhanh chóng bị trôi ra biển. Hiện nay có dòng sông lớn như Mê Kông, sông Hồng nhưng lại bắt nguồn từ các nước khác. Có những con đập đắp trên các dòng sông này khiến Việt Nam không chủ động được nguồn nước. Về ô nhiễm từ thượng nguồn đổ xuống mà chúng ta phải chịu trách nhiệm. Mặc dù có Ủy hội sông Mê Kông nhưng cũng chỉ có 4 nước tham gia, gồm Lào, Campuchia, Việt Nam và Thái Lan. Còn Myanma và Trung Quốc không tham gia, nên rất khó quản lý nguồn nước chung.
Theo thống kê, Việt Nam có hệ thống sông, suối dày đặc với gần 3.500 sông, suối có chiều dài từ 10 km trở lên. Tổng lượng nước mặt trung bình của tất cả các con sông vào khoảng 843 tỉ m3, trong đó có khoảng 520 tỉ m3 sản sinh ở bên ngoài lãnh thổ và nguồn nước nội sinh trên lãnh thổ Việt Nam là khoảng 323 tỉ m3. Mặc dù có hệ thống sông ngòi dày đặc, nguồn nước ngầm phong phú và lượng mưa cao, song Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như: Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường nước, quản lý và sử dụng nước chưa hợp lý... Vì vậy, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia thiếu nước. Cụ thể lượng nước tính theo bình quân đầu người tại Việt Nam hiện là 3.370 m3/đầu người/năm trong khi đó trên thế giới là 7.000 m3/đầu người/năm.
Cần thay đổi tư duy về an ninh nguồn nước
Trong đợt khô hạn, xâm nhập mặn khốc liệt, phá vỡ mọi kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay với 5 tỉnh đã công bố tình trạng khẩn cấp về hạn, mặn. Chúng ta càng thấy rõ Việt Nam đang đối mặt với nghịch lý là trong khi có vẻ như chúng ta có nguồn tài nguyên nước phong phú nhưng thật ra lại thiếu nước.
Nhận thức rõ những thách thức an ninh nguồn nước này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đã chủ động nêu vấn đề và cùng một số cơ quan của Quốc hội làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và đã tiến hành khảo sát ở một số địa phương về vấn đề này.
Theo đó, các ý kiến tại buổi Giám sát về "An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập gắn với bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn” đều cho rằng nguồn nước là một tài nguyên quý giá, có ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến đời sống của người dân cũng như sự phát triển của đất nước. An ninh nguồn nước là một loại hình an ninh phi truyền thống. An ninh nguồn nước, an toàn hồ đập là vấn đề cấp bách, thách thức lớn trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Vì vậy, cần thay đổi tư duy về an ninh nguồn nước trong tình hình mới.
Ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cảnh báo: Chúng ta chưa bao giờ tính toán lượng nước hiện có là bao nhiêu, nước được sử dụng, phân bố như thế nào và những thách thức, khó khăn có thể xảy ra. Đây là vấn đề theo tôi trong tư duy phát triển chúng ta cần quan tâm.
Phát biểu tại buổi giám sát về "An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập gắn với bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng cho rằng: “Nhận dạng phải cho đúng. Quy mô bố trí dân cư thay đổi do đó nhóm giải pháp phải chia ra ngắn và dài hàn, chuyển đổi nhận thức từ đó phải tiết kiệm phải giải quyết được vấn đề. Phải có 1 nghị quyết chuyên đề về an ninh nguồn nước, cấp độ nghị quyết là của Ủy ban thường vụ hay Quốc hội”.
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị các bộ, ngành địa phương phải thay đổi tư duy về an ninh nguồn nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm an ninh nguồn nước với tầm nhìn dài hạn, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ đa ngành, đa mục tiêu, góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, chính là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước bền vững.
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển yêu cầu: “Phải xây dựng được những kịch bản và những tình huống xấu nhất. Gắn với các vấn đề về chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phải lấy hiệu qua làm chính, phải gắn với khoa học công nghệ. Từ thay đổi tư tuy có một tầm nhìn dài hạn, phải có một quy hoạch để gắn ba vấn đề hôm nay đề cập tới. từ đó có giải pháp để khắc phục những thách thức này. Từ đó thẻ hiện như thế nào trong nghị quyết của đảng. Kế hoạch tài chính ngân sách cũng phải được thể hiện, năm năm tới thế nào? Đầu tư công trung hạn, các dự án cụ thể”.
Để bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, các chuyên gia môi trường cũng cho rằng hơn lúc nào hết, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên nước, thiết lập, quản lý chặt chẽ hành lang bảo vệ nguồn nước.
PGS.TS Trương Mạnh Tiến, Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam cho rằng ô nhiễm nước đang diễn ra hàng ngày, vì vậy cần có phương pháp giải quyết tuần hoàn, tránh lãng phí nước. Thứ hai, với những vùng nước bị ô nhiễm, đặc biệt tại khu công nghiệp cần có khu xử lý nước thải tập trung, đảm bảo nước không bị ô nhiễm…. Đặc biệt chúng ta cũng cố gắng giữ môi trường nông thôn sạch, đặc biệt rác thải nông thôn, sử dụng thuốc trừ sâu cũng gây ra nguy cơ ô nhiễm nguồn nước. Với những giải pháp tổng thể góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước. Để làm được điều này cần có sự chung tay của người dân, chính quyền các ban ngành ở Trung ương và địa phương.
Ngoài việc tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, chính quyền các địa phương cũng cần tập trung kiểm soát chặt chẽ các nguồn nước thải từ khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống và nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm xả thải trực tiếp ra sông, suối trên địa bàn mình quản lý. Tiếp tục xây dựng hệ thống giám sát, cảnh báo ô nhiễm nước tại khu vực thượng, trung và hạ nguồn nhằm cung cấp thông tin, số liệu chính xác, kịp thời để xử lý những vấn đề về ô nhiễm, cạn kiệt dòng sông, nhất là nguồn nước cho các nhà máy cung cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân, tránh được những sự cố ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt tương tự đã xảy ra tại một số khu vực ở Hà Nội thời gian qua.
Thách thức với an tinh nguồn nước
Dự đoán đến năm 2025, lượng nước cho đầu người ở Việt Nam chỉ còn khoảng 3.100 m3, thuộc mức dưới trung bình của thế giới. An ninh nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp tới mọi mặt trong đời sống xã hội. Đây cũng là một trong những thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Để bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt, các cơ quan chức năng cần quan tâm các giải pháp mang tính chiến lược để phát triển tài nguyên nước
Vấn đề thiếu nước do lượng phân bố không đều theo không gian và thời gian. Mùa mưa lũ thì nước nhiều gây lũ, lụt; mùa khô thì hạn hán, xâm nhập mặn. Việc thiếu nước còn do nhu cầu sử dụng tăng do phát triển kinh tế-xã hội như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp; sử dụng trong sinh hoạt hoặc cho mục đích phát điện. Bên cạnh đó, việc quản trị nước còn hạn chế, chưa sử dụng nước tiết kiệm...
Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đe dọa nguồn nước ngọt của các sông, nước dưới đất. Biến đổi khí hậu kéo theo hiện tượng thời tiết cực đoan làm gia tăng các loại hình thiên tai như bão, lũ, mưa lớn, hạn hán, lượng mưa phân bố không đều trong năm, mùa khô kéo dài, mùa mưa lượng mưa tăng đột ngột; xâm nhập mặn, lũ ống, lũ quét, thay đổi lưu lượng dòng chảy... gây áp lực lên hệ thống thủy lợi, mực nước biển dâng cao, hạn chế diện tích canh tác. Biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan kéo theo mưa lớn, lũ, việc phòng lũ, chống úng, tiêu thoát nước đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các hồ chứa.
Bên cạnh đó là vấn đề ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt; nguồn nước phụ thuộc lớn vào nguồn nước sông quốc tế... Khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho sản xuất, sinh hoạt của người dân, đặc biệt với địa bàn có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn còn hạn chế.
Đáng chú ý, hiệu quả sử dụng nước thấp, năng lực khai thác công trình thủy lợi chưa chưa đáp ứng yêu cầu. Lượng nước dồi dào nhưng hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo để tích nước, hiệu quả sử dụng nước thấp, thất thoát nước lớn, trong thủy lợi khoảng 30%, trong cấp nước sinh hoạt 25,5%...
Mục tiêu đến năm 2045 đảm nguồn nước cho sinh hoạt và 100% tưới tiêu
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, trong vòng 25 năm tới, trong bối cảnh dân số ngày càng gia tăng, trong đó 2/3 dân số của Việt Nam sinh sống tại ba lưu vực sông lớn: Hồng-Thái Bình, Cửu Long và Đồng Nai. Dự kiến nhu cầu khai thác sử dụng nước của người dân ở các khu đô thị sẽ tăng gấp đôi, tổng nhu cầu về nước vào mùa khô của Việt Nam sẽ gia tăng 32% vào năm 2030, căng thẳng nước sẽ xảy ra nghiêm trọng tại các lưu vực kinh tế trọng điểm (Bắc Bộ, ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Đồng Nai).
Do vậy, để quản lý, sử dụng hiệu quả bảo đảm an ninh nguồn nước, thực hiện Luật Tài nguyên nước, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai thực hiện nhiều giải pháp. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng nhất là tập trung lập quy hoạch tài nguyên nước, hiện nay Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ và triển khai lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia (Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 04/12/2019); triển khai lập quy hoạch 5 lưu vực sông: Hồng-Thái Bình, Bằng Giang-Kỳ Cùng, Sê San, Srê Pốk và Cửu Long (trong đó 03 quy hoạch lưu vực sông Bằng Giang-Kỳ Cùng, Sê San, Srê Pốk dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 12/2020 và 02 lưu vực sông Hồng-Thái Bình và Cửu Long dự kiến trình phê duyệt tháng 12/2021); 08 lưu vực sông còn lại đang xây dựng nhiệm vụ lập quy hoạch. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31/8/2016 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, tiếp tục công tác điều tra, đánh giá tài nguyên nước, đối với nước mặt, việc đánh giá diễn biến dòng chảy, tài nguyên nước mặt trong sông đã được thực hiện ở hầu hết các trạm thủy văn, trạm tài nguyên nước hiện có trên các hệ thống sông Bằng Giang-Kỳ Cùng, Hồng-Thái Bình, Mã, Cả, Ba, Sê San, Srê Pốk, Đồng Nai, Cửu Long và một số sông ven biển Miền Trung.
Đánh giá an ninh nguồn nước là loại an ninh đặc biệt, tác động đến sự phát triển bền vững của đất nước, Bộ trưởng Trần Hồng Hà kiến nghị đưa việc đảm bảo an ninh nguồn nước là một lĩnh vực an ninh phi truyền thống vào trong Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng và kế hoạch toàn khóa XIII cũng như trong các văn kiện Đại hội của các địa phương. Đồng thời, kiến nghị Quốc hội ban hành một nghị quyết riêng về đảm bảo an ninh nguồn nước, đặc biệt là đối với nguồn nước có vai trò quan trọng trong việc cấp nước sinh hoạt, sản xuất.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ đang làm suy thoái nguồn nước, trong khi việc sử dụng, quản lý nguồn nước và xử lý các vấn đề ô nhiễm chưa được coi trọng thỏa đáng. Đây là một trong các nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh, ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc sống và khả năng tiếp cận nước sạch của người dân.
Đặc biệt, biến đổi khí hậu đang làm cho các thách thức về nguồn nước trở nên phức tạp và rất khó lường. Nhiều quốc gia đang đứng trước thực trạng nước sông, nước ngầm suy giảm đáng kể hoặc cạn kiệt, các lớp băng tan nhanh hơn, mực nước biển, triều cường và xâm nhập mặn gia tăng… ảnh hưởng lớn tới việc cung cấp nước cho đời sống, sản xuất. An ninh nguồn nước đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia.
Thanh Thúy