Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia bảo đảm thực hiện cam kết khí hậu tại COP26
Lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, Quy hoạch lâm nghiệp cần bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là cam kết COP26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Quốc Trị, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn quốc là 16,34 triệu ha, chiếm 49% tổng diện tích tự nhiên (tính đến năm 2020). Trong đó, đất có rừng là 14,67 triệu ha, tương ứng tỉ lệ che phủ rừng 42%.
Những năm gần đây, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc liên tục tăng. Giai đoạn 2010-2020, trồng rừng sản xuất mỗi năm đạt trên 200.000 ha. Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản liên tục tăng trưởng ở mức cao. Năm 2021, đạt 15,96 tỷ USD, đứng thứ 5 thế giới, thứ 2 châu Á, thứ nhất Đông Nam Á. Sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã có mặt tại hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngoài ra, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã thu trên 20.000 tỷ đồng, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ, phát triển rừng và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Trị, diện tích rừng có tăng nhưng chất lượng rừng tự nhiên chưa cao. Năng suất rừng trồng còn thấp (tăng trưởng bình quân 15m3/ha/năm). Đặc biệt, chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế của hệ sinh thái rừng về đa dạng sinh học, dịch vụ hấp thụ CO2 và các dịch vụ môi trường rừng khác.
"Nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ngày càng tăng đã tạo áp lực vào rừng và đất rừng", ông Nguyễn Quốc Trị cho hay.
Trong bối cảnh đó, Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nguồn tài nguyên sinh thái vô cùng quan trọng, có giá trị cho sự phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là vũ khí sống còn để thích nghi với biến đổi khí hậu. Quy hoạch này cũng liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương, được lập trong bối cảnh Quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch tỉnh đang triển khai đồng bộ.
Theo đó, Quy hoạch đặt mục tiêu bảo đảm duy trì tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc từ 42-43%, chú trọng nâng cao chất lượng rừng. Phấn đấu giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 20 tỷ USD vào năm 2025. Trồng rừng bình quân phấn đấu đạt 238.000 ha/năm.
Trọng tâm của quy hoạch lâm nghiệp là quy hoạch 3 loại rừng (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất) nên cần bảo đảm cơ cấu 3 loại rừng này một cách hợp lý. Diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ phải được định vị rõ ràng trên bản đồ với ranh giới rừng được số hóa, quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành nêu rõ, việc xây dựng quy hoạch lâm nghiệp phải làm chắc chắc, thận trọng, kỹ càng, lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học.
Cần rà soát kỹ và khẳng định rõ quan điểm đây là ngành kinh tế quan trọng phục vụ đời sống nhân dân, không chỉ có việc trông nom, bảo vệ rừng mà phải phát huy tối đa các tiềm năng, vai trò và tác dụng của rừng để phát triển bền vững, Phó Thủ tướng nêu rõ.
Quy hoạch cần cập nhật thêm các xu hướng của thế giới, làm sao bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là cam kết COP26 về đạt phát thải ròng bằng '0' vào năm 2050. Rà soát, cập nhật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, phù hợp với các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành quốc gia đã được phê duyệt.
Trên cơ sở được được phê duyệt, Quy hoạch lâm nghiệp sẽ làm cơ sở cho các địa phương trong việc lập quy hoạch của tỉnh mình.
Lan Anh