Quản lý tài nguyên nước sông Mê Kông hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
Kiểm toán Nhà nước cho rằng, cần thiết phải xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực sông Mê Kông.
Mới đây, Kiểm toán Nhà nước vừa phát hành Báo cáo kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Kông gắn với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Mục tiêu của cuộc kiểm toán là nhằm đánh giá công tác quản lý tài nguyên nước và việc tuân thủ các cam kết quốc tế của Chính phủ Việt Nam trong quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Kông, gắn với việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời chú trọng đến việc xem xét, xác định các ảnh hưởng, tác động tiêu cực do việc suy giảm nguồn nước sông Mê Kông tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020.
Suy giảm nguồn nước nghiêm trọng
Cuộc kiểm toán được thực hiện trong bối cảnh các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Kông đã và đang phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực không thể lường trước. Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân là do từ các hiện tượng biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường cũng như việc quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước thiếu bền vững, sẽ có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hơn 65 triệu người dân trong lưu vực.
Kết quả kiểm toán đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài nguyên nước kết hợp với các yếu tố biến đổi khí hậu, sự gia tăng của việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Kông dẫn đến những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới Việt Nam, đặc biệt là khu vực ĐBSCL. Đây là nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu dân, cung cấp trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, số lượng nước sông Mê Kông từ thượng nguồn về ĐBSCL năm 2020 giảm 157 tỉ m3 (so với năm 2011). Cùng với đó, lượng phù sa bùn cát giảm tương ứng 14 triệu tấn (37%) so với năm 2017, số lượng nước giảm 22 tỉ m3 so với năm 2019 (giảm 157 tỉ m3 so với năm 2011); 1,5 triệu ha đất đã bị suy thoái chất lượng do giảm độ phì.
Mặt khác, tình trạng xâm nhập mặn đã gây thiệt hại đến khoảng trên 500.000 ha diện tích cây trồng và khiến 486.000 hộ bị thiếu nước sinh hoạt; 2.158 vụ sạt lở (thiệt hại ước tính 1.079 tỉ đồng)...
Báo cáo cũng chỉ ra trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn (ước tính 770 tỉ đồng). Chất lượng nước tại nhiều con sông, kênh, rạch đều ghi nhận tình trạng ô nhiễm và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến gần 85.000 ca bệnh của con người (theo thống kê của ngành y tế trong giai đoạn 2016 - 2020).
Bất đồng trong quản lý và sử dụng nguồn nước
Bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc kiểm toán cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Kông giai đoạn 2016 – 2020 tại các Bộ, ngành, địa phương. Trong đó, công tác quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước, nguồn nước liên tỉnh, nội tỉnh chưa kịp thời; công tác giám sát, kiểm soát của cơ quan quản lý còn thiếu sự đồng bộ, chưa đảm bảo kết nối từ Trung ương đến địa phương…
Trong khi đó, công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước giai đoạn 2016 - 2020 chưa đảm bảo theo quy định của Luật Tài nguyên nước (2012) và Luật Bảo vệ môi trường (2014).
Tại nhiều địa phương, tình trạng xả nước thải vào nguồn nước có dấu hiệu ô nhiễm vẫn diễn ra trong khi lại chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị về biện pháp xử lý, giảm thiểu tác động trong quá trình thẩm định, cấp phép.
Về việc triển khai Hiệp định Mê Kông 1995 của các quốc gia, kết quả kiểm toán chỉ rõ: Đến nay, mới có 4/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Kông ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông 1995 (MRC). Các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên MRC trong việc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Kông còn thiếu…
Bên cạnh đó, việc thực hiện 5 thủ tục của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (trao đổi và chia sẻ thông tin, số liệu; thông báo, tham vấn trước và thỏa thuận; duy trì dòng chảy trên dòng chính; giám sát sử dụng nước; chất lượng nước) chưa thực sự đồng bộ và được cập nhật thường xuyên. Việc giám sát sử dụng nước chưa triển khai toàn diện; việc thực hiện tham vấn đối với các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính còn gặp một số vướng mắc...
Từ kết quả kiểm toán trên, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Mê Kông 1995 nghiên cứu, trao đổi, tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ đề xuất Ủy hội sông Mê Kông quốc tế. Theo đó, xây dựng văn bản/hướng dẫn kỹ thuật về giám sát sử dụng nước trên dòng nhánh; duy trì dòng chảy tối thiểu; đề xuất xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực sông Mê Kông.
Đồng thời, thúc đẩy Ủy hội sông Mê Kông quốc tế thực hiện chuyển giao các hệ thống quan trắc và các quốc gia thành viên vận hành hiệu quả các hệ thống này nhằm đảm bảo cơ sở dữ liệu cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực sông Mê Kông.
Cuộc kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Kông có sự tham gia của 3/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Kông, gồm Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, cùng sự hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật của các chuyên gia đến từ Kiểm toán Nhà nước Malaysia, Indonesia, Ngân hàng thế giới (WB)...
Tại Việt Nam, cuộc kiểm toán được thực hiện tại 4 Bộ, ngành Trung ương, bao gồm Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, Bộ TN&MT, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT và 12 tỉnh, thành phố thuộc lưu vực sông Mê Kông, từ ngày 3/3 đến ngày 29/4/2021.
Thùy Linh (T/h)