Bộ trưởng TN&MT: Năng lượng 'xanh' và kinh tế tuần hoàn siêu bền vững
Ngành TN-MT nỗ lực định hình, chuyển đổi chính sách nhằm thực hiện phát triển theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo nội dung đã được Nghị quyết Đại hội XII của Đảng XII đề ra.
Trong giai đoạn 5 năm 2016-2020, ngành tài nguyên và môi trường đã phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, song bằng sự quyết tâm và chung sức của toàn ngành, đặc biệt là định hướng của Trung ương, Bộ Chính trị với những chủ trương để xây dựng chính sách mới theo hướng “phát triển kinh tế không đánh đổi môi trường,” phát triển kinh tế dựa trên phát triển chặt chẽ tài nguyên và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đất nước đã đạt được những kết quả quan trọng.
Trước thềm Đại hội XIII của Đảng và bước sang giai đoạn mới, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã giành thời gian trả lời phỏng vấn của Báo Điện tử VietnamPlus về những điểm sáng nổi bật của ngành trong thời gian qua cũng như những định hướng đổi mới quan trọng cho giai đoạn tới.
Chuyển từ bị động sang chủ động phòng ngừa
- Trước tiên, xin Bộ trưởng cho biết những kết quả nổi bật của ngành tài nguyên và môi trường trong nhiệm kỳ 5 năm 2016-2020 vừa qua?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trong 5 năm qua, đặc biệt là từ đầu nhiệm kỳ, ngành tài nguyên và môi trường đã đứng trước những thời điểm hết sức khó khăn, sóng gió. Các lĩnh vực quản lý của ngành, nhất là môi trường luôn luôn có những điều hết sức bị động, bất ngờ. Tại nhiều địa bàn khác nhau, ở nhiều dự án khác nhau, các sự sự cố môi trường thường xảy ra. Đáng chú ý nhất là sự cố ô nhiễm môi trường ở 4 tỉnh miền Trung do Formosa gây ra.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực khác như đất đai cũng thường xuyên đứng đầu trong top lĩnh vực nóng bỏng, có số lượng người dân khiếu kiện, khiếu nại rất đông. Trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, tình trạng khai thác khoáng sản chưa được quản lý chặt chẽ, còn xảy ra khai thác trái phép và thiếu hiệu quả trong sử dụng; quá trình khai thác cũng gây ra các vấn đề về môi trường như bãi thải.
Trong 5 năm vừa qua, biến đổi khí hậu tác động ngày càng lớn và nghiêm trọng. Thời tiết cực đoan xảy ra trên khắp cả nước như rét đậm rét hại, sạt lở, lũ ống lũ quét ở các vùng núi cao ở phía Bắc, hạn hán ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên và xâm nhập mặn diễn ra liên tục ở Đồng bằng sông Cửu Long do tác động “kép” của biến đổi khí hậu cũng như việc sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mekong…
Nói như vậy để thấy các lĩnh vực mà ngành quản lý luôn đứng trước những vấn đề hết sức bị động, bất ngờ và lúng túng. Cá nhân là Bộ trưởng cũng như toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức của ngành đều có tâm trạng hết sức lo lắng. Chính vì thế, chúng tôi đã tập trung, toàn tâm toàn ý để giải quyết các sự cố, giải quyết các vấn đề mang tính chất sự vụ để ứng phó với các vấn đề mới nảy sinh.
Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 2016-2020, Đảng và Nhà nước cũng đã khẳng định đây là giai đoạn chuyển tiếp - từ giai đoạn cũ với chủ trương tất cả cho các vấn đề phát triển kinh tế, huy động tất cả các nguồn lực cho phát triển và xóa đói giảm nghèo nên các vấn đề môi trường nhiều khi còn chấp nhận đánh đổi; hay nói cách khác là nhu cầu phát triển kinh tế dựa trên một mô hình là khai thác, sử dụng triệt để tài nguyên thiên nhiên - sang giai đoạn mới, phát triển thân thiện với môi trường.
Từ năm 2016, chúng ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Trung ương, Bộ Chính trị đã có những chủ trương để xây dựng chính sách mới theo hướng phát triển kinh tế không ảnh hưởng đến môi trường, phát triển kinh tế dựa trên phát triển chặt chẽ tài nguyên và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nên đã đạt được những kết quả to lớn. Đây cũng là bài học hết sức quan trọng đối với công tác quản lý tài nguyên và môi trường - nếu còn quan điểm, nhận thức là phát triển trước, xử lý môi trường sau thì bài toán về kinh tế sẽ phải trả giá rất đắt.
Ngoài ra, việc ban hành Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển cũng đã làm thay đổi cơ bản về nhận thức và tư duy quản lý, trong đó lấy tiêu chí phát triển kinh tế xã hội dựa trên sự phát triển hài hòa, dựa trên nền tảng bền vững về hệ sinh thái tự nhiên. Nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực mà ngành quản lý như tài nguyên đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, chúng tôi đã tập trung rà soát cùng các địa phương, lắng nghe các địa phương để thấu hiểu các vướng mắc và cùng với các địa phương bằng các văn bản để tháo gỡ khó khăn, đưa các nguồn lực vào phát triển và được sử dụng một cách tổng hợp, hiệu quả.
Công tác quản lý tài nguyên và môi trường đã chuyển biến từ bị động, bất ngờ sang chuẩn bị bài bản, đồng bộ các cơ chế chính sách; nhận thức của người dân về môi trường được nâng lên rất cao. Nhờ đó đã xác định được các phương pháp quản lý, xác định mô hình về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế cacbon thấp và kinh tế tuần hoàn là nhiệm vụ hết sức chủ đạo, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững hơn. Tức là thay đổi từ kinh tế “nâu,” năng lượng “nâu” sang năng lượng “xanh” và kinh tế tuần hoàn siêu bền vững.
Trong vòng 5 năm qua, trên 950.000 tỉ đồng đã đóng góp vào thu ngân sách. Riêng năm 2020, thu từ đất đai đã gấp 2 lần so với năm 2015. Tôi khẳng định rằng việc thu từ đất hiện nay đã được tính toán dựa trên những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất đai. Khoảng 230.000 hécta đất đã được chuyển sang để phục vụ phát triển kinh tế, gần 1 triệu hécta đất trước đây chưa sử dụng đã được đưa vào sử dụng để phát triển rừng; hàng trăm nghìn hécta đất trước đây ở các dự án chậm sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả cũng đã được đưa vào phát triển nguồn lực hiệu quả.
Các quyết sách về ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động đề xuất, thúc đẩy triển khai có hệ thống với tầm nhìn chiến lược; công tác dự báo khí tượng thủy văn được tập trung hiện đại hóa, nâng cao chất lượng, góp phần giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Chỉ tính riêng đợt hạn mặn năm 2019-2020 mức độ ảnh hưởng lớn gấp 2-2,5 lần năm 2016 nhưng mức độ thiệt hại giảm 9,6%.
Từ kinh tế “nâu” sang kinh tế tuần hoàn
- Như Bộ trưởng vừa đề cập, thời gian qua đã xảy ra một số sự cố gây ô nhiễm như Formosa. Vậy sau "bài học đắt đỏ” đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có những điều chỉnh cơ chế chính sách, giải pháp quản lý như thế nào?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Sau bài học nêu trên, chúng tôi xác định ngay từ chủ trương đầu tư, quy hoạch phát triển, trong quá trình thẩm định sơ bộ và đánh giá tác động môi trường... chúng ta phải làm thực chất, làm kỹ và dựa trên đánh giá về trình độ công nghệ, dựa trên kinh nghiệm của thế giới bởi chúng ta không có đầy đủ thông tin.
Thứ hai, chúng tôi xác định rất rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình đầu tư để có thể đánh giá, dự báo và nhận dạng được các tác động có thể xảy ra, đặc biệt là khí thải, nước thải và chất thải rắn; giám sát chặt chẽ các nguồn thải, tính toán đến giải pháp kỹ thuật để phòng ngừa sự cố môi trường. Chúng tôi cũng phân ra 17 loại ngành công nghiệp, xác định quy mô và tính chất nguy hiểm, qua đó xác định các trường hợp để giám sát đặc biệt.
Một bài học quan trọng nữa là sự tham gia giám sát của người dân và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Theo đó, khi các vấn đề đã nhận dạng được tác động sẽ đưa ra được các yêu cầu, đòi hỏi các dự án phải công khai thông tin để người dân - “tai mắt” của pháp luật phát hiện và kịp thời có giải pháp, xử lý. Đặc biệt, ngay từ khi làm quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch liên quan đến môi trường cần có sự tính toán để không xảy ra các sự cố môi trường trong tương lai.
Ngoài ra, các bộ, ngành, các địa phương cần có sự phối hợp mạnh mẽ hơn nữa và cao hơn là các quốc gia trong việc giải quyết một vấn đề môi trường.
Ví dụ như đối với lĩnh vực tài nguyên nước, hơn 60% nguồn nước trên các con sông thuộc lãnh thổ Việt Nam được bắt nguồn từ nhiều quốc gia khác nhau. Vì thế, việc quản lý nguồn nước, đặc biệt là đối với sông Mekong rất cần sự phối hợp, đồng lòng của các quốc gia trong lưu vực. Đối với vấn đề ô nhiễm rác thải nhựa, đây cũng là một vấn nạn mang tính toàn cầu, cần có một chế định mang tính toàn cầu.
- Một trong những nội dung rất quan trọng của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vừa qua là phát triển theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Xin Bộ trưởng cho biết những giải pháp mà Bộ đã thực hiện trong thời gian qua?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Hiện nay, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã tạo ra một nền tảng hết sức quan trọng để chúng ta chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế đi theo chiều sâu và chất lượng. Theo đó, ngành tài nguyên và môi trường cũng đã phải định hình, chuyển đổi các chính sách của mình thông qua Chủ trương của Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.
Cũng phải khẳng định rằng mọi yêu cầu phát triển không thể không phát triển nhưng phát triển phải tính đến các bài toán về môi trường và phát triển phải dựa trên việc bảo vệ, giữ gìn và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Hay là giải quyết mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với môi trường, kinh tế với môi trường lúc nào cũng phải hài hòa, phải tính chi phí môi trường ngay từ đầu.
Trong quá trình phát triển, việc hoạch định tài nguyên thiên nhiên là đầu vào, là một nguồn lực, trong nguồn lực đó nguồn lực hữu hạn không thể tái tạo thì cần phải phân định để làm sao tính toán, giải quyết được bài toán về môi trường, bài toán bền vững trong tương lai, cũng như phân bổ được cho các thế hệ… Trên cơ sở đó, chuyển sang kinh tế tuần hoàn mà mọi tài nguyên thiên nhiên được khai thác có tính toán và sử dụng lâu bền, hiệu quả nhất; tiến tới chất thải ít nhất.
Theo đó, trong mọi bài toán về kinh tế đều phải có tính đến môi trường, trong các chi phí về phát triển kinh tế đều phải bao gồm chi phí về bảo vệ môi trường. Kinh tế nước ta cần phải chuyển đổi từ một nền “kinh tế nâu” sang nền “kinh tế xanh,” phải chuyển từ việc sử dụng các nguyên liệu hóa thạch sang các nguyên liệu thân thiện với môi trường, phải giữ được không gian sống xanh cho con người. Tư duy cần chuyển sang kinh tế tuần hoàn, hay nói cách khác, một nền kinh tế mà mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều phải được xử lý một cách hiệu quả, tiết kiệm.
Ở ngành tài nguyên và môi trường, chúng tôi cho rằng cần phải xác định môi trường là một ngành. Đầu tư vào nguồn vốn tự nhiên, cải thiện chất lượng môi trường, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên - đó là một ngành. Trong xu thế phát triển, kinh tế số cũng là giải pháp, là động lực để ngành quản trị, lượng hóa và hoạch toán được, cũng như giảm việc sử dụng tài nguyên, có thời gian để phát triển kinh tế đầu tư vào vốn tự nhiên, tạo ra công ăn việc làm và ổn định xã hội.
Hiện nay, trên thế giới, nhiều nước và Tổ chức Liên hợp quốc công bố tình trạng khẩn cấp về biến đổi khí hậu, đặc biệt chúng ta đang đứng trước một đại dịch lớn chưa từng có - đại dịch COVID-19. Các nhà khoa học đã tìm ra những mối quan hệ khoa học với vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề liên quan đến các loài hoang dã, các hệ sinh thái hiện nay đang bị cạn kiệt… Do đó, phát triển dựa trên kinh tế xanh, kinh tế các bon thấp, kinh tế tuần hoàn là những việc cấp bách cần phải làm.
Giữ không gian sống xanh cho thế hệ mai sau
- Một trong những vấn đề đang được các bộ, ngành rất quan tâm là Chương trình trồng 1 tỉ cây xanh, đặc biệt là trong dịp "Tết trồng xây" vừa được Thủ tướng Chính phủ phát động. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện những công việc gì để triển khai chương trình này, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trước tiên,phải nói đây là sáng kiến của người đứng đầu Chính phủ - Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã được nêu ra tại kỳ họp Quốc hội vừa qua. Về góc độ Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là cơ quan sẽ chịu trách nhiệm trong vấn đề bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, ở góc độ Bộ Tài nguyên và Môi trường, chúng tôi cũng đang xây dựng một đề án rất cụ thể để triển khai.
Tôi mong rằng mỗi người dân, tổ chức, doanh nghiệp, mỗi địa phương đều có riêng cho mình một sáng kiến đối với việc trồng cây, bởi đây là sáng kiến hết sức đúng đắn. Tôi cũng nhắn mạnh rằng đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi thái độ của cá nhân đối với tự nhiên, bởi tự nhiên đang chịu tác động rất lớn của việc phát triển kinh tế, việc mất cân bằng sinh thái tự nhiên đang là một nguy cơ nguy cấp.
Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường, chúng tôi cũng sẽ xem xét ở nhiều góc độ để triển khai ý tưởng này, để việc trồng cây không đơn thuần là phong trào, cũng không phải chỉ dừng lại ở 1 tỉ cây mà còn giúp phục hồi thiên nhiên về mặt sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, là di sản để lại cho các thế hệ sau này. Vì thế các đơn vị liên quan cần có những đánh giá hiệu quả xuất phát từ khoa học, đánh gía về điều kiện thổ nhưỡng và điều kiện đặc thù của từng khu vực, từng địa phương.
Dựa trên các điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ có việc trồng cây khác nhau, cây trồng tại rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, tại các khu công nghiệp, đường giao thông và cần phải có sự phù hợp để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, việc trồng cây cần được tất cả người dân cũng như các địa phương thực hiện thường xuyên và lâu dài, thường xuyên; trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phải đi đầu trong phong trào trồng cây.
Chúng tôi cũng mong muốn các địa phương, doanh nghiệp và mỗi người dân sẽ có những sáng kiến góp phần làm nên Tết trồng cây không phải chỉ mỗi dịp Tết, mà sẽ trồng cây quanh năm. Đã trồng cây nào thì cây đó phải có giá trị và phải được bảo vệ, trồng cây nào thì cây đó trở thành “món quà” gửi lại cho thế hệ sau.
Nâng cao công tác dự báo, cảnh báo, bảo vệ môi trường
- Với những khó khăn và kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ 5 năm vừa qua, xin Bộ trưởng cho biết trong năm 2021 và giai đoạn tới, ngành tài nguyên và môi trường sẽ làm gì để giúp đất nước phát triển vững mạnh hơn?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trước khi nói đến năm 2021, cũng phải nhìn nhận rằng những việc chúng tôi đã thực hiện được trong thời gian qua mới chỉ là xây dựng những nền tảng ban đầu, mà không phải tất cả các lĩnh vực đều làm được.
Đối với lĩnh vực môi trường, chúng ta đã có Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, đã có những chủ trương quan trọng được đưa vào các Văn kiện sẽ được công bố tại Đại hội XIII của Đảng. Chúng ta cũng đã có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực từ tháng 1/2022 nên đối với môi trường - một trong 3 trụ cột quan trọng của phát triển bền vững, chúng tôi sẽ tập trung triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, trong đó lấy người dân làm lực lượng nòng cốt, người dân phải là người thực hiện, tham gia nhưng đồng thời cũng là người giám sát về môi trường.
Nếu mỗi người dân đều có ý thức, đoàn kết, có quyết tâm cao và coi việc bảo vệ môi trường quan trọng giống như người dân đất nước ta hiện nay đang rất đoàn kết chống lại dịch COVID-19 thì công tác bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước, phát triển đất nước theo hướng thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong thời gian tới sẽ đạt được những bước tiến lớn.
Trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu và khí tượng thủy văn. Biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên cực đoan và khó đoán định. Vì thế, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm sao tăng cường khả năng dự báo một cách chính xác hơn, đưa ra những cảnh báo kịp thời hơn, cũng như đánh giá được sự biến đổi của khí hậu để từ đó có thể đưa ra được những quy hoạch tổng thể, kịp thời, chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động thích ứng.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, đòi hỏi chúng ta cần phải tổng hợp rất nhiều lĩnh vực khoa học của các ngành, địa phương và có đánh giá cụ thể từng khu vực, nhất là các tai biến địa chất, xây dựng thiết lập mạng lưới quan trắc dày hơn liên quan đến khí tượng và thủy văn ở đó, thậm chí xây dựng hệ thống giám sát trực tiếp...
- Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Hùng Võ