Xử lý ô nhiễm đại dương có thể giảm thiểu khủng hoảng khí hậu
Tổ chức Greenpeace cho biết những nỗ lực khôi phục hệ sinh thái biển sẽ tăng khả năng hấp thụ nhiệt và lưu trữ carbon.
Cá voi vây (cá voi lưng xám) ăn thức ăn của loài nhuyễn thể, động vật giáp xác tự ăn thực vật phù du, hoạt động như một bể chứa carbon. Ảnh Chụp màn hình: BBC / NHU |
Ngừng đánh bắt quá mức và ô nhiễm nhựa trên các đại dương có thể giúp giải quyết tình trạng khẩn cấp khí hậu bằng cách cải thiện tình trạng xuống cấp của đại dương - bể chứa carbon lớn nhất thế giới.
Các đại dương hấp thụ cả nhiệt lượng dư thừa do khí thải nhà kính của chúng ta và hấp thụ carbon dioxide, giúp giảm tác động của hỗn loạn khí hậu. Nhưng chúng ta đang nhanh chóng đạt đến giới hạn của khả năng hấp thụ của đại dương bởi việc cướp bóc sinh vật biển của chúng ta đang phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng và chu trình carbon tự nhiên.
Báo cáo mang tên “Nước Nóng: Khủng hoảng khí hậu và nhu cầu cấp thiết về bảo vệ đại dương” được tổ chức Greenpeace International công bố vào ngày 4/12 cho biết: Việc tạo ra các khu bảo tồn đại dương và xây dựng một hiệp ước mới để bảo vệ các đại dương, với mục tiêu bảo vệ ít nhất 30% các đại dương vào năm 2030 có thể khôi phục nhiều khu vực về khả năng tồn tại và chống lại sự nóng lên toàn cầu.
Chẳng hạn, thực vật phù du như tảo biến chuyển đổi carbon dioxide hòa tan thành carbon hữu cơ, sau đó tạo thành một phần của chuỗi thức ăn. Dần dần một số loài trong số này chìm xuống đáy biển, nơi nó bị chôn vùi trong trầm tích. Theo ước tính được trích dẫn trong báo cáo, nếu không có máy bơm carbon sinh học, điều này đòi hỏi nồng độ carbon trong khí quyển ngày nay sẽ cao hơn khoảng 50%.
Krill - một loài cá nhỏ cũng là một phần quan trọng của chu trình carbon trên biển khi chúng di chuyển qua các cấp độ của đại dương và đóng một vai trò lớn trong chế độ ăn uống của các loài lớn hơn. Tuy nhiên, quần thể nhuyễn thể đã suy giảm trong thời gian dài kể từ những năm 1970 do ô nhiễm, đánh bắt quá mức và biến đổi khí hậu.
Sinh vật biển cũng đóng một vai trò quan trọng. Greenpeace nhấn mạnh ước chính cho thấy cá voi tấm sừng lớn lưu trữ carbon ít hơn 910 triệu tấn so với trước khi bắt đầu săn bắt cá voi thương mại, mặc dù công cuộc xây dựng lại quần thể cá voi chính sẽ loại bỏ 160.000 tấn carbon mỗi năm.
Louisa Casson, nhà vận động đại dương tại tổ chức môi trường Greenpeace UK cho biết: "Sinh vật biển đại dương là một trong những đồng minh tốt nhất của chúng ta trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc khai thác quá mức và việc chúng ta “lạm dụng” nhiên liệu hóa thạch đã đẩy đại dương của chúng ta đến bờ vực sụp đổ. Bảo vệ đại dương là hành động khí hậu - nếu chúng ta có thể cứu đại dương, đại dương có thể cứu chúng ta.”
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của LHQ gần đây đã nêu bật những hiểm họa mà đại dương phải đối mặt với sự hỗn loạn khí hậu, trong báo cáo đầu tiên chỉ tập trung vào môi trường biển. Điều đó cũng thể hiện sự báo động về axit hóa đại dương. Các vùng biển hiện nay có tính axit cao hơn khoảng 26% so với thời kỳ tiền công nghiệp, đặc biệt là các tác động gây hại đối với động vật có vỏ.
Theo kế hoạch, đại dương là một chủ đề chính tại cuộc họp về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc tại Madrid, Tây Ban Nha, nơi các quốc gia hiện đang thảo luận về tiến trình của thỏa thuận biến đổi khí hậu Paris. COP25 theo dự kiến diễn ra ở Chile, một quốc gia có đường bờ biển trải dài hơn 4.000 km và có sự phụ thuộc lớn vào các đại dương. Tuy nhiên, bất ổn chính trị đã khiến COP25 chuyển từ Santiago (Chile) đến Tây Ban Nha.
Bảo vệ các đại dương cũng có thể giúp các cộng đồng ven biển mạnh mẽ hơn trước các tác động của biến đổi khí hậu. Rừng ngập mặn và rạn san hô có thể đóng vai trò là rào cản đối với nước dâng do bão, nhưng đầm lầy ngập mặn đang bị phá hủy để nhường chỗ cho nghề cá thương mại và các rạn san hô đang bị tẩy trắng bởi nhiệt độ tăng. Ngăn chặn chu kỳ hủy diệt có thể giúp giảm tác động của mực nước biển dâng và những cơn bão dữ dội hơn dự kiến sẽ phát sinh từ hệ thống sưởi ấm toàn cầu.
Greenpeace cũng kêu gọi lệnh cấm khai thác dưới biển sâu dù khả thi về mặt kinh tế nhờ đổi mới công nghệ nhưng phần lớn vẫn chưa được kiểm soát.