Việt Nam có "mỏ vàng" về điện sạch
Một báo cáo mới đây của Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định, Việt Nam được coi là một trong những nước có tiềm năng phát triển điện gió, sóng ngoài khơi lớn và phong phú nhất khu vực Đông Nam Á.
Với hơn 3.000 km bờ biển nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định, năng lượng sóng phong phú, một số khu vực biển có lượng gió lớn nhất ở Đông Nam Á, Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong những nước có tiềm năng lớn về phát triển điện gió, sóng lớn nhất khu vực và là thị trường triển vọng nhất về điện sạch ngoài khơi.
Mới đây (ngày 25/4/2022), Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã giới thiệu Báo cáo tiềm năng năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam. Báo cáo do Tổng cục Khí tượng Thủy văn và các đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT thực hiện. Đây là nguồn tài liệu tham khảo để các bộ, ngành và địa phương khai thác, sử dụng trong quá trình hoạch định, xây dựng và cập nhật chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển liên quan đến năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió, sóng ngoài khơi các vùng biển Việt Nam.
Vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau giàu tiềm năng điện gió
Theo Bộ TN&MT, Việt Nam là nước nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định nên tiềm năng năng lượng gió được đánh giá là rất dồi dào. Từ kết quả tính toán tiềm năng năng lượng gió từ số liệu tái phân tích cho thấy phân bố gió và tiềm năng năng lượng gió ở mực độ cao 100 m trên các vùng ven biển Việt Nam như sau:
Các vùng biển có khả năng khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất là Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau và một phần vùng biển trung tâm vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt, tiềm năng gió đạt ở mức tốt đến rất tốt ở khu vực biển Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu với tốc độ gió trung bình năm từ 8 đến 10 m/s, mật độ năng lượng trung bình năm phổ biến từ 600 đến trên 700 W/m2 .
Cụ thể: Vùng biển Bắc vịnh Bắc Bộ: Hướng gió chủ đạo là hướng Đông đến Đông Đông Bắc. Trung bình năm, tốc độ gió từ 6-8 m/s, mật độ năng lượng gió khoảng 200-500 W/m2 . Vùng biển Nam vịnh Bắc Bộ: Hướng gió chủ đạo là hướng Đông. Trung bình năm, tốc độ gió từ 6-8 m/s, mật độ năng lượng gió khoảng 200-500 W/m2 .
Theo kết quả khảo sát của chương trình đánh giá về năng lượng cho Châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng gió trung bình so với các nước trên thế giới và trong khu vực nhưng thuộc diện lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW, lớn gấp 200 lần công suất của nhà máy thuỷ điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2020.
Vùng biển Quảng Trị đến Quảng Ngãi: Hướng gió chủ đạo là hướng Đông. Trung bình năm, tốc độ gió từ 6-8 m/s, mật độ năng lượng gió phổ biến từ 200-400 W/m2 . Vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận: Hướng gió chủ đạo là hướng Bắc đến Đông Bắc. Trung bình năm, tốc độ gió từ 7-9 m/s, mật độ năng lượng gió phổ biến từ 300-600 W/m2 .
Vùng biển Bình Thuận đến Cà Mau: Hướng gió chủ đạo là hướng Bắc Đông Bắc đến Đông Đông Bắc. Trung bình năm, tốc độ gió từ 7-10 m/s và mật độ năng lượng gió khoảng 300-700 W/m2 . Vùng biển Cà Mau đến Kiên Giang: Hướng gió chủ đạo là hướng Đông đến Đông Đông Nam. Trung bình năm, tốc độ gió từ 5-7 m/s, mật độ năng lượng từ 100-300 W/m2 .
Ở các vùng biển phía Bắc, thời gian có có thể khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất (tốc độ gió trung bình ≥ 8 m/s) là từ tháng 10 đến tháng 2 ở vùng biển Bắc vịnh Bắc Bộ; từ tháng 11 đến tháng 1 ở các vùng biển Nam vịnh Bắc Bộ, Quảng Trị đến Quảng Ngãi.
Ở các vùng biển phía Nam, tốc độ gió cũng như mật độ năng lượng gió có sự phân hoá theo mùa. Tốc độ gió/mật độ năng lượng gió trong các tháng chính mùa 34 hoạt động của gió mùa đông và mùa hè lớn hơn các tháng chuyển tiếp; trong đó trị số trong mùa đông lớn hơn nhiều so với mùa hè ở các vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau và không có sự chênh lệch nhiều giữa hai mùa ở vùng biển Cà Mau đến Kiên Giang. Thời gian nên khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất ở các vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau là từ tháng 11 đến tháng 2, với tốc độ gió trung bình trên 8 m/s và mật độ năng lượng gió phổ biến trên 500 W/m2 .
Ở các mực độ cao 150 và 200 m, phân bố không gian mật độ năng lượng gió trên các vùng biển ven bờ tương tự mực 100 m, trị số cao có xu hướng lệch về phía nam hơn. Mật độ năng lượng gió tại các mực 150 m, 200 m xấp xỉ mực 100 m ở các vùng biển Bắc vịnh Bắc Bộ, Nam vịnh Bắc Bộ, Quảng Trị đến Quảng Ngãi, Cà Mau đến Kiên Giang; và cao hơn không nhiều ở các vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận (300-700 W/m2 ), Bình Thuận đến Cà Mau (300-800 W/m2 ).
Khai phá tiềm năng năng lượng sóng
Cùng với năng lượng gió, do Biển Đông nằm trên khu vực có hai chế độ gió mùa luân phiên nên năng lượng sóng ngoài khơi của Việt Nam cũng được đánh giá là có lợi thế lớn và phong phú nhất so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Theo Bộ TN&MT, kết quả tính toán năng lượng sóng trung bình nhiều năm cho thấy khu vực có tiềm năng năng lượng sóng > 2 kW/m bao phủ toàn bộ vùng Biển Đông, ngoại trừ khu vực vịnh Thái Lan; khu vực có tiềm năng năng lượng > 10 kW/m trải rộng từ phía Bắc đến giữa Biển Đông và kéo dài đến ngoài khơi khu vực Nam Trung Bộ; khu vực có tiềm năng năng lượng cao nằm ở eo Luzon. Trong mùa Đông, gió mùa Đông Bắc tạo ra vùng năng lượng sóng khá mạnh trên vùng bắc và giữa Biển Đông, nhất là trong tháng 12 với tiềm năng năng lượng lớn nhất tới 70 kW/m.
Vùng bờ biển miền Trung Việt Nam từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận năng lượng sóng lớn nhất khoảng 50-60 kW, với tần suất xuất hiện ngưỡng “tiềm năng trung bình” tới trên 60% và ngưỡng “tiềm năng cao” tới 40%, do vậy đây sẽ là khoảng thời gian khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất trong năm.
Trong mùa gió Tây Nam, do tốc độ gió không mạnh bằng gió mùa đông bắc và khu vực ảnh hưởng cũng hạn chế ở vùng phía nam Biển Đông nên tiềm năng năng lượng sóng về cơ bản không lớn. Năng lượng sóng cực đại trong mùa này chỉ đạt khoảng 25 kW/m xảy ra vào các tháng 7 và tập trung tại khu vực ngoài khơi phía đông nam Biển Đông.
Tiềm năng năng lượng sóng vùng ven biển Việt Nam thông qua số liệu trích xuất tại 20 điểm ven bờ và các trạm hải văn cũng cho thấy vùng có năng lượng sóng lớn nhất tập trung ở khu vực Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận) và thấp hơn dải ven biển Bắc Bộ và Nam Bộ. Hai khu vực ven bờ vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan có tiềm năng năng lượng sóng thấp nhất.
Kết quả tính toán năng lượng sóng trung bình nhiều năm cho thấy trong mùa Đông, gió mùa Đông Bắc tạo ra vùng năng lượng sóng khá mạnh trên vùng bắc và giữa Biển Đông, nhất là trong tháng 12 với tiềm năng năng lượng sóng lớn nhất tới 70kW/m.
Cần tổ chức điều tra, khảo sát để khai thác tiềm năng
Từ các phân tích nêu trên, Bộ N&MT khẳng định, nhiều khu vực biển tại Việt Nam có tiềm năng năng lượng gió và sóng cao, chưa được khai thác. Đây là lợi thế rất lớn cho Việt Nam hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo, thay thế nguồn năng lượng hiện có đang cạn kiệt, nhằm đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Với ý nghĩa đó, trong thời gian tới, ngành dự báo khí tượng thủy văn sẽ hướng dần tới dự báo xác suất và dự báo tác động cụ thể. Theo đó, với việc phát triển các sản phẩm dự báo tác động cho các nhà máy điện nói chung và cho nhà máy khai thác năng lượng tái tạo nói riêng sẽ là hướng đi hết sức thiết thực, mang lại lợi ích phục vụ trực tiếp xã hội.
“Mặt khác, khi công nghệ mô hình số trị khí tượng, hải dương được phát triển, việc tái xây dựng các bản đồ tiềm năng về gió, sóng ở mức độ chi tiết cao hơn là hoàn toàn khả thi. Khi đó, chúng ta sẽ cho phép đánh giá được các khu vực có khả năng khai thác mới với các điều kiện phù hợp hơn,” đại diện Bộ TN&MT cho biết.
Tuy vậy, phía Bộ TN&MT cũng lưu ý việc chi tiết hóa dự báo sóng và gió đòi hỏi cần phải có sự phát triển về năng lực tính toán và các dữ liệu quan trắc phù hợp để hiệu chỉnh có được các sản phẩm dự báo tin cậy; cũng như đáp ứng được nhu cầu của nhà máy khai thác năng lượng tái tạo và các cơ quan vận hành điều độ điện.
Trong khi đó, hệ thống quan trắc của ngành khí tượng thủy văn hiện nay thường mới chỉ tập trung vào chế độ gió sát bề mặt mực 10m và trên cao từ 2-3km trở lên. Do vậy, thời gian tới, những quan trắc gió ở các mực khai thác năng lượng gió cao hơn từ 50m trở lên cần có những bổ sung bao gồm các quan trắc mang tính chất chuyên đề cụ thể hơn. Trên cơ sở đó, để phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi, phía Bộ TN&MT cho rằng, trong thời gian tới ngành khí tượng và các cơ quan liên quan cần tổ chức điều tra, khảo sát, quan trắc bổ sung điều kiện tự nhiên các vùng biển.
Cùng với đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề xuất lắp đặt thêm các trạm radar biển dọc bờ biển Việt Nam để đo các yếu tố sóng, dòng chảy trên toàn dải ven bờ; xây dựng bộ bản đồ tiềm năng gió và tiềm năng sóng; nghiên cứu, đánh giá, dự báo các tác động của các công trình điện gió, sóng ngoài khơi tới môi trường và các hoạt động kinh tế - xã hội.
Trong "Báo cáo tiềm năng năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam", Bộ TN&MT đề xuất các nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới:
a. Tổ chức điều tra, khảo sát, quan trắc bổ sung điều kiện tự nhiên các vùng biển:
- Điều tra khảo sát, xây dựng trạm đo, thiết bị đo hiện đại, quan trắc các yếu tố gió, bức xạ mặt trời (tháp đo gió, bóng thám không quan trắc gió, thiết bị không người lái…). Dự kiến tại các trạm đảo: Xây dựng tháp đo gió tại các đảo Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Thổ Chu, Phú Quốc, Song Tử Tây, Trường Sa.
- Nâng cấp cách thức và thiết bị đo sóng hiện nay tại các trạm hải văn bằng các máy đo tự động sẽ thu thập được số liệu liên tục trong ngày với tần suất đo nhiều hơn và đầy đủ các tham số độ cao, chu kì và hướng.
- Tiếp tục duy trì và lắp đặt thêm các trạm radar biển dọc bờ biển Việt Nam để có thể đo được các yếu tố sóng, dòng chảy trên toàn dải ven bờ.
- Đối với vùng biển ngoài khơi không có đảo như ngoài khơi Nam Trung Bộ cần sử dụng bóng thám không, thiết bị không người lái hoặc các trạm phao nổi mang các thiết bị đo cấu trúc thẳng đứng của khí quyển (LIDAR).
b. Ứng dụng công nghệ mô hình số trị trong việc tái mô phỏng và đánh giá tiềm năng năng lượng gió chi tiết theo không gian
- Tính toán tiềm năng từ kết quả quan trắc, mô phỏng năng lượng gió, sóng (từ mô hình động lực khí tượng, hải văn độ phân giải cao) kết hợp hiệu chỉnh với dữ liệu quan trắc, vệ tinh và các nguồn dữ liệu khác cho các vùng biển, đảo Việt Nam với độ chi tiết theo không gian ngang từ 2-3 km.
- Xây dựng bộ bản đồ tiềm năng gió (ở các độ cao từ 60-200 m) và tiềm năng sóng cho các vùng biển Việt Nam. - Đánh giá khả năng phát điện bằng năng lượng gió, sóng cho các vùng biển Việt Nam.
- Mở rộng nghiên cứu, đánh giá các tiềm năng năng lượng tái tạo khác trên biển như năng lượng thủy triều, dòng chảy…
c. Giám sát, dự báo năng lượng gió, sóng thời gian thực, cảnh báo thiên tai, dự báo tác động để phục vụ công tác sản xuất năng lượng tái tạo.
- Phát triển các công cụ tích hợp sản phẩm dự báo mô hình, quan trắc vệ tinh, radar để thiết lập các sản phẩm chuyên về cảnh báo thiên tai, dự báo tác động để phục vụ công tác sản xuất năng lượng tái tạo.
- Phát triển sản phẩm dự báo năng lượng gió, sóng thời gian thực dựa trên công nghệ mô hình số trị để phục vụ công tác sản xuất năng lượng tái tạo.
d. Nghiên cứu, đánh giá, dự báo chi tiết tác động thiên tai, môi trường biển tới khả năng xây dựng và khai thác của các công trình điện gió, sóng ngoài khơi.
- Tác động của các thiên tai khí tượng thủy văn, động đất tới xây dựng và khai thác của các công trình điện gió, sóng tại từng khu vực.
- Tác động của môi trường, địa chất, các yếu tố động lực biển tới xây dựng và khai thác của các công trình điện gió, sóng ngoài khơi tại từng khu vực.
e. Nghiên cứu, đánh giá, dự báo các tác động của các công trình điện gió, sóng ngoài khơi đến môi trường và các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Tác động của công trình điện gió, sóng đến môi trường khu vực.
- Tác động của công trình điện gió, sóng đến hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh và an toàn hàng hải tại khu vực.
Khánh Thư