VIASEE tiên phong đồng hành trong công nghệ xanh: 3SR - “Trạm Xanh” vì một môi trường sống Xanh
Dù gặp nhiều khó khăn nhưng Dự án 3SR bước đầu đã gặt hái được những thành công trong việc thực hiện sứ mệnh là công cụ điều hướng, hình thành thói quen phân loại rác tại nguồn, hướng đến một môi trường sống xanh, bền vững trong tương lai.
Dự án 3SR, mạng xã hội tái tuần hoàn rác thải thông minh, ra mắt năm 2021, là minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa đổi mới khoa học và ý thức cộng đồng. Dự án không chỉ giúp người dùng tích điểm từ rác tái chế để đổi quà mà còn xây dựng hệ thống thu gom thông minh, góp phần giảm thiểu hàng nghìn chai nhựa mỗi ngày tại các khu ký túc xá và trường học.

Được sáng lập bởi Tiến sĩ Bùi Thị Thanh Hương (Đại học Quốc gia Hà Nội), Ủy viên Hội đồng Biên tập - Tạp chí Kinh tế Môi trường, dự án đã vượt qua muôn vàn rào cản về vốn đầu tư và thói quen của cộng đồng để đạt Top 20 Giải pháp Đổi mới Tuần hoàn Nhựa 2024 (do Bộ Tài nguyên và Môi trường, Unilever Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp Anh - BritCham, Quỹ Khởi nghiệp Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam - SVF, Đại sứ quán Anh và Ngân hàng Standard Chartered phối hợp tổ chức). Từ những “Trạm Xanh” tích hợp bán lẻ thông minh và tái nạp đầy tự động, 3SR không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là cầu nối giữa doanh nghiệp, giáo dục và cộng đồng, hướng tới mục tiêu “cuộc sống không rác thải”.
Trong cuộc trò chuyện với PV Tạp chí Kinh tế Môi trường, Tiến sĩ Bùi Thị Thanh Hương đã có những chia sẻ về hành trình đầy cảm hứng, hứa hẹn sẽ khơi dậy thêm nhiều sáng kiến tương tự, góp phần đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và kỳ vọng vào sự đột phá phát triển của Hội Kinh tế môi trường Việt Nam trong nhiệm kỳ tới.
Xây dựng thói quen tiêu dùng xanh
Thưa bà, Dự án 3SR - mạng xã hội tái tuần hoàn rác thải thông minh đã gặt hái nhiều giải thưởng và thu hút được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng. Trong hành trình đó, chắc chắn dự án phải đối diện không ít thách thức. Vậy 3SR đã vượt qua những rào cản như thế nào?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: 3SR, hay còn gọi là “Trạm Xanh”, là một hệ thống tích hợp 3 thành tố chính: Chuỗi bán lẻ thông minh (Smart Retail), Hệ thống tái nạp đầy tự động giảm bao bì rác nhựa (Smart Refill) và Hệ thống thu gom chai nhựa cùng rác tái chế (Smart Recycling). Ba hệ thống này được tích hợp trong một trạm. Khi người dùng mang rác tái chế hoặc vỏ chai nhựa đến trạm, họ sẽ được tích điểm để mua nước uống từ hệ thống Smart Refill hoặc các sản phẩm bán lẻ tiêu dùng từ Smart Retail.

Sự kết hợp này không chỉ giảm thiểu bao bì nhựa mà còn hình thành thói quen tiêu dùng xanh: tái sử dụng chai cá nhân thay vì mua chai mới dùng một lần, đồng thời thu hồi bao bì để tránh xả thải ra môi trường.
Các dự án môi trường nói chung và dự án về công nghệ xanh nói riêng thường gặp khó khăn lớn về nguồn vốn. Đối với dự án này, mọi người đều công nhận giá trị bảo vệ môi trường, ý nghĩa của Trạm Xanh, nhưng ít nhà đầu tư sẵn sàng rót vốn do khả năng thu hồi chậm.
Thứ hai là duy trì mạng lưới vận hành: chúng tôi thiếu nhân lực vận hành những Trạm Xanh. Nhân lực đem rác thu gom được hay chăm sóc, bảo hành, bảo trì hệ thống và cả những người vận động cộng đồng theo các chương trình… đều gặp rất nhiều khó khăn.
Khi còn nhiều rào cản và thị trường còn chưa quen, chúng tôi đã chọn làm tốt ở một điểm.
Giải pháp của chúng tôi là bắt đầu từ quy mô nhỏ, thí điểm tại trường học - nơi dễ hình thành thói quen. Với vốn đầu tư ban đầu cơ bản, “vừa vặn” và sự hỗ trợ từ nhà đầu tư, chúng tôi triển khai “Mô hình giải pháp xanh”, tích điểm carbon cho học sinh khi bỏ rác vào Smart Recycling, đổi điểm lấy phần thưởng từ máy bán hàng tự động. Điều này tạo phong trào “vận động xanh” toàn trường, giúp dự án vượt qua giai đoạn đầu.
Trước đây, dự án thúc đẩy phân loại rác tại nguồn và tái chế rác thải 3R do JICA (Nhật Bản) tài trợ gặp khó khăn vì thói quen phân loại tại nguồn không được duy trì. Theo bà, đâu là rào cản văn hóa - xã hội lớn nhất khiến người Việt khó duy trì thói quen này? Và 3SR đã giải quyết vấn đề này như thế nào?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: Dự án 3R triển khai thành công ban đầu tại 4 quận nội thành Hà Nội trong một năm và được truyền thông mạnh mẽ. Người dân khi đó rất hào hứng phân loại rác thành 3 túi: thực phẩm, tái chế và không tái chế; sau đó được thu gom riêng biệt. Nhờ nguồn lực vận động từ các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên và các tổ dân phố, dự án đã đạt hiệu quả cao - đặc biệt trong giai đoạn 2005, 2006.
Tuy nhiên, khi hết tài trợ, hết nguồn lực, thiếu quản trị viên và truyền thông, dự án vô cùng giá trị này nhanh chóng “chết yểu”. Người dân cho rằng hành vi phân loại trở thành vô nghĩa vì rác đã phân loại của người dân khi được thu gom lại dồn chung vào làm một ngay tại đầu ngõ.
Tôi cho rằng căn nguyên là vấn đề quản trị hệ thống thu gom và quản lý rác thải của toàn thành phố chưa đồng bộ - đây vẫn là câu chuyện trách nhiệm không của riêng ai. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định liên quan đều quy định rõ phải phân loại rác tại nguồn nhưng các chế tài xử phạt vẫn chưa đủ rõ nét, chưa đủ mạnh để áp dụng đến từng hộ dân.
3SR đã giải quyết câu chuyện này bằng cách mang lại lợi ích trực tiếp cho mỗi người tham gia vào hệ thống: người tham gia phân loại rác hữu cơ hoặc tái chế (giấy, nhựa, kim loại) sẽ nhận tiền, điểm thưởng hoặc đổi hàng hóa.
Chúng tôi tập trung thu gom các loại có thể tái chế hoặc hữu cơ cũng chính là phục vụ bước đầu cho quá trình phân loại toàn bộ.
Hệ thống số hóa tài nguyên rác tái chế còn giúp giám sát mức độ phân loại tại các khu dân cư, hỗ trợ thực thi chính sách và Nghị định 35 về phân loại rác tại nguồn. Chúng tôi hy vọng giải pháp này sẽ được lan tỏa rộng rãi.
Kết nối lợi ích kinh tế và môi trường
Với kinh nghiệm từ các quốc gia Israel, Đài Loan, Australia, Singapore, Trung Quốc hay Ấn Độ… mà bà đã tham gia học tập về mô hình kinh tế tuần hoàn rác thải, bà có thể chia sẻ những bài học vận dụng vào dự án khởi nghiệp môi trường tại Việt Nam hiện nay?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: Đầu tiên là những tiến bộ từ các quốc gia này mà Việt Nam chưa thực hiện được, tôi ấn tượng nhất là không gian công cộng hầu hết ở các quốc gia này luôn rất sạch.
Mọi người dân đều ý thức được rằng ở đâu có sự sạch sẽ, ở đó có sự văn minh. Và nếu việc giữ gìn vệ sinh không được thực hiện tốt thì chính các cơ quan quản lý ở đó “đau đáu” nhất.
Ở Đài Loan, Trung Quốc và Israel, phân loại rác hữu cơ được ưu tiên cao. Trung Quốc đã có hệ thống thu gom tự động quét mã, tích điểm qua WeChat để tạo “điểm công dân xanh”. Đài Loan hình thành thói quen tự nhiên: mọi bếp ăn đều có khu vực riêng cho rác hữu cơ và tái chế, mọi người ăn xong đều mang ra khu vực phân loại đổ rác hữu cơ mà mình ăn thừa và rác tái chế để riêng mà không cần tuyên truyền. Israel cũng rất quý và coi rác hữu cơ là nguồn phân bón hữu cơ, hỗ trợ nền nông nghiệp rất đặc sắc của quốc gia này.
Trung Quốc còn có hệ thống ủ rác hữu cơ đa quy mô (từ 5kg đến số lượng nhiều tấn), chiết xuất dầu cho nhiên liệu máy bay và sản xuất phân bón chỉ sau 24 giờ mà không mùi hôi. Ấn Độ lại vận hành nhà máy khổng lồ hàng trăm hec-ta, xử lý rác hữu cơ thành hàng trăm nghìn bao phân bón mỗi ngày nhờ công nghệ ủ nhanh.
Với rất nhiều bài học từ các mô hình trên thế giới, chúng tôi vận dụng vào 3SR bằng hệ thống ủ rác hữu cơ trong khoảng thời gian ngắn. Tôi đã nhận chuyển giao từ nước ngoài kết hợp nghiên cứu nội bộ để chuyển đổi hệ thống tích điểm ủ rác hữu cơ thành tích điểm carbon.
Tích điểm carbon có giá trị lưu trữ như tài sản cá nhân hoặc tổ chức, dùng làm căn cứ để xếp hạng phát triển xanh. Điều này tạo động lực phân loại tại nguồn, trở thành bộ công cụ hỗ trợ toàn dự án.
Từ năm 2018, Việt Nam đã có bước tiến trong ngành nhựa tái chế, nhưng đến nay vẫn xếp thứ 5 thế giới về xả rác nhựa ra đại dương. Theo bà, làm thế nào để các sáng kiến như 3SR tạo tác động mạnh mẽ hơn trong giảm thiểu rác nhựa và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: Để 3SR phát huy tối đa, chìa khóa là số hóa tài nguyên rác nhựa qua các trạm thu gom vỏ chai lon, tích điểm đổi quà. Chúng tôi liên kết với chuỗi siêu thị như Central Retail, Big C, Unilever, Pepsi hay Coca-Cola để những người tham gia được lấy điểm tích lũy đổi giảm giá khoảng 5-10% cho sản phẩm thuộc bao bì nhựa của nhãn hàng. Người dùng vừa giảm thiểu được rác thải nhựa nhưng đồng thời cũng thúc đẩy quá trình kinh tế toàn hoàn.

Ví dụ, tại ký túc xá đại học với 5.000-7.000 sinh viên, hệ thống của chúng tôi từng ghi nhận thể thu 1.500 chai nhựa/ngày. Trong một ngày, hệ thống của chúng tôi có thể thu gom số lượng như vậy tại một ký túc xá đại học thì trong nhiều ngày sẽ giảm đáng kể lượng nhựa thải ra môi trường, đồng thời giúp doanh nghiệp thực hiện Trách nhiệm Mở rộng của Nhà sản xuất (EPR) theo Luật Bảo vệ môi trường. Đây là cách kết nối lợi ích kinh tế và môi trường.
VIASEE - Tiên phong trong công nghệ xanh
Hội Kinh tế môi trường Việt Nam chuẩn bị kỷ niệm 25 năm thành lập. Bà đánh giá thế nào về vai trò của Hội trong thúc đẩy sáng kiến như 3SR và các dự án khởi nghiệp môi trường khác?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: Vai trò của Hội Kinh tế môi trường Việt Nam (VIASEE) vô cùng quan trọng trong kết nối các nguồn lực xã hội, cộng đồng, củng cố uy tín và có vai trò tiên phong trong công nghệ xanh. Hội vừa là công cụ vận động chính sách cho Nhà nước, vừa hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm mở rộng EPR, điều hướng hành vi xanh trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu Net Zero của Việt Nam vào năm 2050.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội độc lập, Hội tập hợp được sức mạnh tập thể, kết nối các bên liên quan để đưa tiếng nói đến Chính phủ, điều chỉnh hoạt động kinh tế và cộng đồng theo hướng chuyển đổi xanh.
Bà kỳ vọng gì về sự hợp tác giữa Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam và các tổ chức giáo dục, doanh nghiệp để thúc đẩy giải pháp kinh tế tuần hoàn trong tương lai?
TS. Bùi Thị Thanh Hương: VIASEE có cơ cấu hội viên đa dạng - từ các nhà chính sách, các chuyên gia khoa học, các chuyên gia môi trường, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp và các bên có liên quan. Đây là nơi hội tụ mong muốn chung vì Việt Nam tốt đẹp hơn, vì một xã hội phát triển xanh, kinh tế toàn hoàn.
Là tổ chức phi lợi nhuận, Hội tập hợp tiếng nói quần chúng, tạo trụ cột vững chắc cho công cuộc chuyển đổi xanh của đất nước. Như vậy, Hội Kinh tế môi trường Việt Nam không chỉ đóng vai trò là một tổ chức chính trị xã hội ở một phạm vi nhỏ hẹp, không chỉ hoạt động nội bộ mà còn liên kết quốc tế.
Trân trọng cảm ơn TS. Bùi Thị Thanh Hương về cuộc trò chuyện ngày hôm nay!
VIASEE có cơ cấu hội viên đa dạng - từ các nhà chính sách, các chuyên gia khoa học, các chuyên gia môi trường, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp và các bên có liên quan. Đây là nơi hội tụ mong muốn chung vì Việt Nam tốt đẹp hơn, vì một xã hội phát triển xanh, kinh tế toàn hoàn.
Bảo Loan














