Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức
Trải qua một quá trình phát triển của kinh tế thế giới từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu lên công nghiệp, công nghiệp hiện đại và hướng đến nền kinh tế số, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã đạt được những thành tựu to lớn.
Tuy nhiên cùng với đó là sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường gia tăng, thay đổi hệ sinh thái và biến đổi khí hậu. Để khắc phục những vấn đề này nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, không thiếu hụt nguồn cung cấp đầu vào cho hệ thống kinh tế và giảm thiểu tối đa chất thải đưa ra môi trường, hướng đến một nền kinh tế không có chất thải, chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính (Linear Economy), dựa trên nguyên lý khai thác tài nguyên thiên nhiên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường sang kinh tế tuần hoàn (Circular Economy), dựa trên nguyên lý chất thải đầu ra của hoạt động kinh tế sẽ được thu hồi trở lại làm nguyên liệu đầu vào cho hệ thống kinh tế và không phát thải ra môi trường.
Ở Việt Nam, hoạt động kinh tế từ trước đến nay vẫn chủ yếu dựa vào cách tiếp cận truyền thống đó là kinh tế tuyến tính, đây cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu hụt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, để thực hiện phát triển nhanh, bền vững, giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường “không đánh đổi” tăng trưởng kinh tế với ô nhiễm và suy thoái môi trường, chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn (KTTH) là hướng đi thích hợp.
Tuy nhiên việc chuyển đổi này cần phải nắm bắt được những cơ hội và chấp nhận những thách thức cần phải vượt qua.
Luận cứ về kinh tế tuần hoàn
Luân chuyển vật chất trong hệ thống kinh tế nhìn từ sản xuất và tiêu dùng
Trong mỗi nền kinh tế, vốn, lao động, khoa học và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên được xác định là những đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Cùng với đó, các hoạt động kinh tế, dân sinh sẽ tạo ra chất thải vào môi trường (Hình 1).
Từ khái quát hóa phiên bản của Barry C.Field cho thấy để nâng cao hiệu quả và tính bền vững của nền kinh tế đối với môi trường tự nhiên, trong hệ thống kinh tế phải khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thô và giảm thiểu tối đa chất thải ra môi trường do nền kinh tế tạo ra thông qua tái sử dụng, tái chế chất thải.
Việc này hoàn toàn có thể thực hiện được dựa trên nguyên lý động lực học, định luật bảo toàn vật chất và năng lượng, tính thực tiễn của hoạt động kinh tế, cho phép chuyển hóa chất thải quay vòng trở lại đầu vào của hệ thống kinh tế. Về nguyên lý thể hiện theo phương trình cân bằng sau:
M = Rpd + Rcd (theo các ký hiệu hình 1)
Để hiểu rõ hơn, chúng ta thay thế M theo dòng di chuyển vật chất như sau:
Rpd + Rcd = M = G + Rp - Rpr - Rcr
nghĩa là số lượng nguyên liệu thô từ môi trường thiên nhiên (M) bằng đầu ra hàng hóa (G) cộng với chất thải sau sản xuất (Rp) trừ đi tổng lượng được tái tuần hoàn của người sản xuất (Rpr) và của người tiêu dùng (Rcr).
Có ba cách chủ yếu để giảm M như sau:
- Thứ nhất, giảm G có nghĩa là giảm số lượng hàng hoá sản xuất ra trong nền kinh tế, điều này không thể thực hiện vì sẽ giảm tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai, giảm Rp có nghĩa là giảm chất thải sau sản xuất. Về cơ bản, chỉ có hai cách để thực hiện điều này. Cách thứ nhất là chúng ta nghiên cứu, chế tạo và áp dụng các công nghệ và thiết bị mới vào sản xuất nhằm tạo ra lượng chất thải ít hơn trên một đơn vị thành phẩm. Có thể gọi đấy là giảm “cường độ chất thải” của sản xuất.
Khi bàn đến vấn đề phát thải khí CO2 toàn cầu và khí quyển nóng lên chẳng hạn, thì chúng ta có thể thấy rằng, có rất nhiều điều có thể làm được để giảm cường độ CO2 trong quá trình sản xuất năng lượng đầu vào để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm,…
Cách thứ hai là thay đổi thành phần bên trong của sản phẩm. Sản phẩm G hiện nay bao gồm một số lớn các hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Giữa chúng có sự khác biệt lớn về chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất ra chúng. Do đó, muốn giảm tổng lượng chất thải phải thay đổi thành phần và cách thức dịch vụ của G theo hướng tăng tuổi thọ của G, thiết kế chất thải giảm tối đa sau sản xuất. Sự chuyển dịch từ kinh tế sản xuất chế tạo sang kinh tế dịch vụ là bước đi theo hướng này.
- Thứ ba, tăng (Rpr + Rcr), có nghĩa là thay vì thải các chất thải sản xuất và tiêu dùng ra môi trường, chất thải được tái tuần hoàn, đưa chúng trở lại vào quy trình sản xuất. Nhờ có tái tuần hoàn mà chúng ta có thể thay thế một phần dòng khởi nguyên của các nguyên vật liệu chưa khai thác (M) và do đó, giảm bớt lượng chất thải, đồng thời vẫn duy trì được lượng hàng hoá và dịch vụ (G). Trong nền kinh tế hiện đại, tái tuần hoàn tạo cơ hội lớn để giảm dòng thải, muốn vậy phải đổi mới quy trình công nghệ không có hoặc có ít chất thải ngay trong quá trình sản xuất và công nghệ tái chế chất thải. Kinh tế tuần hoàn là cách tiếp cận để giảm M và tăng (Rpr + Rcr) nhưng vẫn đảm bảo tăng G trong nền kinh tế.
Vai trò của kinh tế tuần hoàn
KTTH mô tả một hệ thống kinh tế dựa vào các mô hình kinh doanh thay thế khái niệm “kết thúc vòng đời” bằng việc từ thiết kế đến sản xuất, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi các nguyên liệu trong các quá trình sản xuất/phân phối và tiêu dùng ở các cấp độ vi mô (sản xuất, các doanh nghiệp, người tiêu dùng), cấp độ trung gian (ví dụ như các khu công nghiệp sinh thái), cấp độ vĩ mô (thành phố, vùng, quốc gia và rộng hơn nữa), với mục tiêu đạt được phát triển bền vững với ngụ ý đảm bảo chất lượng môi trường tốt nhất, sự thịnh vượng về kinh tế và công bằng xã hội, đáp ứng lợi ích hiện tại và tương lai.
Kinh tế tuyến tính chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất, tiêu dùng và thải bỏ chất thải ra môi trường, dẫn đến việc tạo ra một lượng phế thải khổng lồ, khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó kinh tế tuần hoàn chú trọng việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra chất thải. Việc tận dụng tài nguyên được thực hiện bằng nhiều hình thức, từ thiết kế lại (Redegine), giảm thiểu (Reduce) sửa chữa (Repair), tái sử dụng (Reuse), tái chế (Recycle), và thay vì sở hữu vật chất thì hướng đến chia sẻ (sharing) hoặc cho thuê (leasing).
Việc chuyển đổi sang KTTH là một cơ hội lớn để phát triển nhanh và bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường mà còn ứng phó với biến đổi khí hậu (hình 2). Việc chuyển đổi sang KTTH giúp đáp ứng các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Tiếp cận chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang KTTH mang lại những lợi ích trong bối cảnh thiếu hụt, khủng hoảng tài nguyên, thực hiện SDGs, biến đổi khí hậu:
(i) Cách tiếp cận này không chỉ là những điều chỉnh nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của nền kinh tế truyền thống - kinh tế tuyến tính mà còn là một sự thay đổi hệ thống tạo ra khả năng phục hồi lâu dài, cơ hội kinh doanh cũng như mang lại những lợi ích môi trường và xã hội; (ii) Là cơ sở tiền đề để thực hiện các mục phát triển bền vững (SDGs 2030) thông qua đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững như: Giảm tỉ lệ hiện nay về suy giảm tài nguyên, gìn giữ cho đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai;
Nâng cao nhận thức của người dân về tái sử dụng, tái chế chất thải, hạn chế tiêu dùng các mặt hàng sử dụng một lần không cần thiết; Mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất để hỗ trợ thực hiện 100% tỉ lệ tái chế chất thải thành nguyên liệu; (iii) Là con đường hướng đến nền kinh tế cacbon thấp, đặc biệt trong các ngành công nghiệp nặng. Tính toán của EU cho thấy, kinh tế tuần hoàn thông qua việc đo lường, kiểm soát các hoạt động từ phía nhu cầu có thể giúp giảm hơn một nửa lượng khí thải phát ra từ các ngành công nghiệp.
Nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn
Theo Ellen MacArthur Foundation (2015) thì KTTH là một hệ thống công nghiệp được phục hồi và tái tạo theo thiết kế, dựa trên ba nguyên tắc chính: Bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên, tối ưu hóa năng suất tài nguyên và thúc đẩy hiệu quả của hệ thống .
(1) Duy trì và tăng cường vốn tự nhiên thông qua kiểm soát các tài sản hữu hạn và cân bằng các dòng tài nguyên tái tạo với các mức độ: Phục hồi, chuyển hóa, trao đổi.
(2) Tối ưu hóa năng suất tài nguyên thông qua tuần hoàn các sản phẩm, các linh kiện và vật liệu để sử dụng được ở mức độ thỏa dụng cao nhất.
(3) Thúc đẩy hiệu suất toàn hệ thống bằng cách tối thiểu hóa các ngoại ứng tiêu cực.
Phân loại các cấp độ của kinh tế tuần hoàn
KTTH có nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo cấp độ được chia thành ba cấp:
(a) Cấp độ thấp, KTTH tập trung vào quá trình sản xuất của các doanh nghiệp và các mặt hàng nông sản, các nhà sản xuất được khuyến khích và yêu cầu áp dụng các phương pháp sản xuất sạch hơn và thiết kế sinh thái; Nghĩa là được nhìn nhận từ các công đoạn của quá trình sản xuất của doanh nghiệp
(b) Cấp độ trung gian, kinh tế tuần hoàn bao gồm việc phát triển các khu công nghiệp sinh thái và các hệ thống nông nghiệp sinh thái khác; Từ việc thiết kế để tạo cơ hội tốt nhất cho việc thực hiện KTTH đối với hoạt động của doanh nghiệp.
(c) Cấp độ cao, cấp độ doanh nghiệp. Ở cấp độ này, toàn bộ các công đoạn của quá trình sản xuất đều được thiết kế và không có chất thải đưa ra môi trường, chất thải đều được giảm thiểu tối đa, tái sử dụng và tái chế.
Những biểu hiện tiếp cận kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Từ luận cứ về KTTH, xem xét bản chất, nội hàm, quá trình hình thành và phát triển để khái quát hóa tiếp cận KTTH ở Việt Nam có thể nhận thấy hiện nay chúng ta chưa có những mô hình KTTH đầy đủ đúng nghĩa của nó, tuy nhiên những biểu hiện sự hình thành và quá trình phát triển từ trước đến nay, những mô hình gần với kinh tế tuần hoàn đã có khá sớm, xét theo lĩnh vực ngành có thể nhìn nhận như sau:
Đối với ngành nông nghiệp
- Mô hình thu gom phân ủ tưới hoa màu và rau ngoại thành Hà Nội (điển hình làng Cổ Nhuế, huyện Từ liêm, Hà Nội trước đây, những năm thập niên 50-70 của thế kỷ XX khi chưa xuất hiện bồn vệ sinh dùng nước. Rơm rạ là thức ăn cho trâu bò, thời chiến tranh rơm rạ là nguyên liệu chế ra các trang bị tránh mảnh bom, mảnh đạn.
- Mô hình vườn – ao – chuồng (VAC), vườn – rừng – ao – chuồng (VRAC) từ những thập niên 70-80 của thế kỷ XX, mô hình kinh tế sinh thái từ những thập niên 90-2000. Những mô hình này là sự kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi theo dạng chuỗi thức ăn, sau này đến sau năm 2000 bổ sung thêm thu hồi khí từ vật nuôi dạng hầm biogas.
- Hiện nay, mô hình chăn nuôi hộ trang trại thu hồi phân, khí biogas mang lại hiệu quả kinh tế tăng thu nhập cùng với bán sản phẩm đầu ra, điển hình mô hình nuôi bò Mộc Châu của một số hộ gia đình.
- Mô hình sử dụng rơm rạ sau thu hoạch lúa để dùng bón phân, sản xuất nấm rơm, vật liệu xây dựng ở một số địa phương nhưng chưa phổ biến. Thu hoạch tận dụng bẹ ngô làm hàng thủ công mỹ nghệ.
Tất cả các hoạt động kinh tế trên trong lĩnh vực nông nghiệp đều là thu hồi chất thải quay vòng cho tái chế, chuyển hóa chất thải nhằm thu được lợi ích tổng thể cao.
Đối với ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
- Sự xuất hiện các làng nghề truyền thống ở Việt Nam sử dụng các phế liệu, phụ phẩm, chất thải từ sản xuất công nghiệp: Sản xuất thép tái chế - Đa Hội (Bắc Ninh), sản xuất giấy tái chế Dương Ổ (Bắc Ninh), sản xuất đồ nhựa, nilon tái chế Minh Khai (Hưng Yên), thủy tinh tái chế… xuất hiện sớm và nay vẫn tồn tại phát triển.
- Sản xuất sạch hơn đã được triển khai trong các doanh nghiệp và đem lại hiệu quả nhất định đối với các doanh nghiệp có công nghệ cũ sử dụng lãng phí tài nguyên, năng lượng và xả thải trực tiếp ra môi trường. Mô hình này được tiếp cận dựa trên cơ sở sinh lời của doanh nghiệp nhờ cải tiến các công đoạn sản xuất, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng và thu hồi chất thải, chính vì vậy đã huy động được sự tham gia của các doanh nghiệp trên nguyên tắc tự nguyện là chính.
Điển hình như Công ty sàng tuyển than Cửa Ông (Quảng Ninh) thay vì nước rửa than trược đây thải ra biển, sau đó chuyển sang thu hồi nước, lắng đọng cặn dạng than bùn, sử dụng lại nước rửa than, hạch toàn kinh tế tăng lợi nhuận cho công ty và không xả nước thải rửa than ra môi trường.
- Sự ra đời của của khu công nghiệp sinh thái mới đây ở Hải Phòng, Ninh bình và một số địa phương khác từ chỉ đạo của Chính phủ đã có sự đánh giá tổng kết của UNIDO là mô hình gần với kinh tế tuần hoàn mang lại hiệu quả kinh tế điển hình ở Việt Nam trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
- Một số doanh nghiệp đã có những biểu hiện tái sử dụng, tái chế chất thải như Công ty thuốc là Thăng Long trước đây (bán cuộng lá thuốc lá sơ chế cho nông hộ trồng hoa Vĩnh Phúc làm phân bón, bán lại phần loại thải bìa carton bao gói cho tái chế giấy), Công ty Bia Hà Nội (sử dụng lại chai theo hình thức đặt cọc), Công ty Bia Heniken (sử dụng lại chai và tái chế nắp chai cho làm cầu)… và nhiều công ty khác không để lãng phí chất thải có thể tái sử dụng, tái chế mang lại hiệu quả kinh tế.
Tất cả các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp như đã chỉ ra ở trên, chất thải được tái sử dụng, tái chế hoặc đầu vào cho lĩnh vực hoạt động kinh tế khác, những hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ sở động lực và hiệu quả kinh tế mang lại cho doanh nghiệp.
Đối với ngành dịch vụ, du lịch
- Dịch vụ thu gom phế liệu, phế thải có giá trị đầu vào cho tái sử dụng, tái chế như sắt thép và kim loại khác đã có từ rất sớm ở Hà Nội - đường đê La Thành, thu gom tóc rối lông gà lông vịt - làng Triều Khúc, Hà Nội, các mô hình này xuất hiện từ những thập niên 50-60 của thế kỷ XX.
- Dịch vụ xử lý rác thải theo công nghệ mới như công nghệ chân không để tạo ra các nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp tư nhân - Quảng Bình, công nghệ đốt phát điện - TP.Hồ Chí Minh, công nghệ ủ rác thu hồi khí mê tan và phát điện - Hà Nội.
- Trong lĩnh vực thương mại, xuất hiện giảm thiểu chất thải nhựa, túi nilon thay thế sản phẩm dễ phân hủy và sử dụng nhiều lần.
- Trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, nhà hàng việc thu gom chất thải thức ăn dư thừa để bán lại cho cơ sở chăn nuôi hoặc chế biến phân bón hữu cơ có thể được xem tiếp cận KTTH.
Nhìn nhận các hoạt động kinh tế thuộc ba nhóm ngành gần với KTTH trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, du lịch cho thấy, chúng ta mới dừng lại ở tái sử dụng, tái chế chất thải và một số loại chất thải lĩnh vực này là đầu vào của hoạt động kinh tế khác, kết quả mang lại chủ yếu lợi ích về tài chính cho cơ sở sản xuất và tiêu dùng, chưa tính tới lợi ích kinh tế tổng thể nên chính hoạt động của tái sử dụng, tái chế chất thải là nguyên nhân gây ra ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Cơ hội
Phát triển KTTH ở Việt Nam hiện nay có những cơ hội sau:
Thứ nhất, đây là xu hướng chung của toàn cầu đã được chứng minh thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới như Thụy điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore…, Chính vì vậy, Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Thứ hai, chúng ta đang quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN việc chuyển đổi mô hình từ “kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn” được thiết kế từ chủ trương của Đảng nhằm phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững là cơ hội lớn. Đặc biệt, mới đây Luật bảo vệ môi trường sửa đổi 2020 đã được Quốc Hội khóa XIV kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 17/11/2020, nội dung phát triển mô hình KTTH đã được quy định trong luật.
Thứ ba, việc khuyến khích và tạo cơ chế cho kinh tế tư nhân phát triển trong bối cảnh thị trường cạnh tranh sẽ có nhiều cơ hội cho đầu tư của khu vực tư nhân vào thực hiện phát triển KTTH trong thời gian tới.
Thứ tư, chúng ta đã và đang hướng đến cách mạng 4.0 thực hiện phát triển KTTH gắn với công nghệ cao, chuyển từ thế giới thực sang thế giới số sẽ là cơ hội lớn nhằm nâng cao hiệu quả phát triển so với cách thức phát triển trước đây.
Thứ năm, áp lực của thiếu hụt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lượng chất thải lớn, nhất là chất thải nhựa và túi nilon được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng, do vậy thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn cần nắm bắt cơ hội này. Ngoài ra, chúng ta đang thực hiện SDGs và ứng phó với BĐKH, phát triển kinh tế tuần hoàn chính là cách thức phát triển giúp cho thực hiện nhiều mục tiêu, chỉ tiêu yêu cầu của SDGs, phát triển KTTH sẽ là ưu thế cho giảm thiểu các chất gây hiệu ứng nhà kính, vì chúng được thu hồi gần như triệt để, không phát thải ra môi trường.
Thứ sáu, phát triển KTTH sẽ nhận được sự đồng thuận cao và ủng hộ của xã hội, vì cách thức phát triển này sẽ giải quyết được sự khan hiếm tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Thách thức
Thứ nhất, nhận thức đúng về bản chất của KTTH được thực hiện từ thiết kế đến triển khai thực tiễn, trong các ngành, lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp, người dân và các cấp quản lý, lãnh đạo để tạo ra một đồng thuận chung là thách thức lớn.
Thứ hai, KTTH gắn với đổi mới công nghệ và thiết kế mô hình trong bối cảnh chúng ta là nước đang phát triển, phần lớn công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, đây là thách thức lớn cần phải vượt qua.
Thứ ba, chúng ta chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho phát triển KTTH, thực tế mới đưa vào luật BVMT 2020, cần hướng dẫn của Chính Phủ, thách thức này cần phải được khắc phục, nếu không việc thực hiện phát triển KTTH cũng chỉ là tự phát và chịu sự điều chỉnh của động lực thị trường, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai mô hình KTTH.
Thứ tư, chúng ta chưa có bộ tiêu chí để nhận diện đánh giá, tổng kết và đưa ra phân loại chính xác mức độ phát triển của KTTH, đây là thách thức lớn để biết được sự phát triển kinh tế hiện nay đã tiếp cận tới phát triển kinh tế tuần hoàn trong các ngành, lĩnh vực và địa phương ở mức độ nào.
Thứ năm, kinh tế tuần hoàn là đỉnh cao của cách tiếp cận hướng đến phát thải bằng không, đòi hỏi một sự phối hợp chia sẻ thực sự gắn với lợi ích kinh tế, do vậy việc sử dụng động lực kinh tế, cơ chế thị trường để gắn kết các bên liên quan nhằm thực hiện KTTH là thách thức lớn.
Thứ sáu, để thực hiện KTTH khâu cuối cùng tái sử dụng, tái chế chất thải sau sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay những chuyên gia này chưa được đào tạo và chưa có chuyên ngành đào tạo về KTTH.
Thứ bảy, KTTH đòi hỏi phải có sự phân loại, làm sạch chất thải trước khi đưa vào tái sử dụng, tái chế, đây là thách thức không nhỏ đối với thực tiễn vận hành của kinh tế Việt Nam và ý thức phân loại chất thải tại nguồn của người dân. Sự đồng thuận của mỗi người dân về phân loại chất thải tại nguồn ở Việt Nam là thách thức lớn.
Đề xuất kiến nghị phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Thứ nhất, cần phải có một hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển KTTH, từ chủ trương của Đảng đến pháp luật của Nhà nước. Hiện nay nội dung phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn đã được thể hiện trong luật BVMT sửa đổi 2020. Kinh nghiệm các nước đã và đang thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn đều có luật và quy định pháp lý rõ ràng. Chúng ta cần sớm triển khai văn bản dưới luật qui định lộ trình, cách thức tiến hành thực hiện tạo cơ chế khuyến khích mô hình KTTH phát triển phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Thứ hai, cần triển khai nghiên cứu sâu rộng về phát triển mô hình KTTH từ cách tiếp cận chung toàn cầu, nguyên tắc xác lập theo ngành, lĩnh vực, triển khai mô hình, tiêu chí của mô hình KTTH, từ đó lựa chọn vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam và phổ biến rộng rãi đến doanh nghiệp, người dân, các nhà quản lý để có một nhìn nhận đúng và rất thực tiễn.
Thứ ba, phát triển KTTH cần phải dựa trên các ngành, lĩnh vực và địa phương đã và đang triển khai các mô hình kinh tế gần với cách tiếp cận mô hình kinh tế tuần hoàn, từ đó bổ sung hoàn thiện và có sự lựa chọn phù hợp cho từng ngành, lĩnh vực từ thí điểm đến triển khai nhân rộng.
Thứ tư, tạo cơ chế để hình thành động lực thị trường dựa trên các tiêu chí của hiệu quả đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp, người dân nhất là khu vực tư nhân đầu tư mạnh mẽ thực hiện phát triển các lĩnh vực thuộc KTTH, xác lập rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện phát triển KTTH.
Thứ năm, tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và đang thực hiện thành công kinh tế tuần hoàn, từ đó chuyển giao và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Các mô hình KTTH gắn với công nghệ cao và cách mạng công nghiệp 4.0, do vậy cần có cơ chế chính sách cho phát triển công nghệ sạch, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải, chất thải phải được phân loại, làm sạch trở thành nguồn nguyên liệu dưới dạng tài nguyên trong nền kinh tế xét cả khía cạnh sản xuất và tiêu dùng.
Thứ sáu, thực hiện phát triển KTTH cần có lộ trình và ưu tiên trong phát triển dựa trên nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội. Đối với Việt Nam, ưu tiên trước hết là chất thải nhựa và túi nilon phải thực hiện và đưa vào kế hoạch 5 năm tới để giải quyết triệt để, giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường dựa trên cơ sở phát triển KTTH.
Thứ bảy, vấn đề cần phải giải quyết ngay đối với Việt Nam là phân loại rác tại nguồn và rác sau khi phân loại phải được thu gom, làm sạch, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế. Phân loại rác tại nguồn phải trở thành yêu cầu bắt buộc, tiêu chí đánh giá văn hóa đối với người dân.
Kết luận
Phát triển KTTH ở Việt Nam đòi hỏi phải hiểu rõ bản chất và luận cứ được cách thức phát triển này. Để phát triển KTTH cần tổng kết, đánh giá những mô hình phát triển đã có đối với các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, du lịch, từ đó nhận dạng những cách thức phát triển gần với tiếp cận KTTH làm cơ sở để nâng cấp lên phát triển theo những tiêu chí của KTTH. Phát triển KTTH, cần nhận thức được những cơ hội để tận dụng các cơ hội này, mặt khác cũng phải thấy được những thách thức đối với phát triển KTTH sẽ gặp phải để có biện pháp khắc phục. Phát triển KTTH cần phải có những giải pháp phù hợp dựa trên thực tiễn của Việt Nam và những bài học kinh nghiệm của thế giới.
Nguyễn Thế Chinh