Hệ sinh thái trước nhiều nguy cơ
Việt Nam đang đứng trước một loạt vấn đề về môi trường sinh thái, trải dài từ nông thôn miền núi đến đồng bằng đô thị dù là một đất nước đa dạng sinh học cao.
Trong một thế giới toàn cầu hóa, những vấn đề xảy ra ở nhiều vùng đất cũng hiện hữu ở Việt Nam, một đất nước nhiệt đới ẩm gió mùa và độ đa dạng sinh học cao. Trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam đang đứng trước một loạt vấn đề về môi trường sinh thái, trải dài từ nông thôn miền núi đến đồng bằng đô thị như phá rừng, suy thoái rừng, ô nhiễm nước ngầm/nước mặt, ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí, ô nhiễm vi nhựa… Tất cả những điều đó khiến có thể bất cứ lúc nào, chúng ta cũng có thể đứng trước nguy cơ rủi ro của bệnh dịch.
Có quá bi quan khi nghĩ về điều đó? Có lẽ, khi nhìn vào thực tế, hẳn nhiều người sẽ cảm thấy bất ngờ. Trong hơn thập kỷ qua, các phong trào, kế hoạch rầm rộ “phủ xanh đất trống, đồi núi trọc” đã góp phần đem lại màu xanh cho những cánh rừng bị phá, và thời gian gần đây, những vùng đất nuôi tôm ven biển đã bắt đầu biết nương vào thiên nhiên để có được sản phẩm “tôm sinh thái” nhưng ngần ấy vẫn còn chưa đủ. “Quãng thời gian những năm 1990 đến bây giờ thì độ che phủ rừng của Việt Nam đã được tăng lên với tỉ lệ từ hơn 30% lên 42%, trong đó chủ yếu là rừng trồng.
Tuy nhiên, điểm mấu chốt ở đây là việc gia tăng diện tích đó không song hành với việc cải thiện chất lượng rừng, thậm chí việc duy trì chất lượng rừng thực sự là thách thức”, TS. Phạm Thị Thu Thủy, trưởng đại diện Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) tại Việt Nam, một tổ chức khoa học nghiên cứu về chính sách và kĩ thuật quản lý rừng bền vững, trao đổi với Tia Sáng vào năm 2020.
Chị còn cho biết thêm thông tin về một thực tại đáng lo ngại: “Trong khi diện tích rừng trồng tăng thì diện tích rừng tự nhiên lại giảm hoặc suy thoái nặng nề. Theo nhiều báo cáo khoa học, diện tích rừng tự nhiên được phân loại là rừng giàu giảm 10,2% trong khoảng thời gian sáu năm từ 1999 đến 2005 và lượng rừng chất lượng trung bình giảm 13,4% so với cùng kỳ. Đến năm 2012, rừng giàu đóng tán chỉ còn chiếm 4,6% tổng độ che phủ rừng. Trên thực tế, các rừng giàu đa dạng sinh học trên đất thấp hầu như không còn, nhất là rừng ngập mặn”.
Vào những ngày đầu năm 2022, tình huống này lại tiếp tục với một sự việc buồn: 16 ha rừng đặc dụng ở Vườn Quốc gia Chư Yang Sin (Đắk Lắk) đã bị đơn vị thi công san ủi khi triển khai Dự án đường Trường Sơn Đông đi qua vườn quốc gia. Sau đó, trên Tuổi trẻ ngày 13/2, cán bộ Ban quản lý dự án 46 – Bộ Tổng tham mưu (Bộ Quốc phòng) thừa nhận, thêm nhiều diện tích rừng thuộc dự án đường Trường Sơn Đông qua Vườn quốc gia Chư Yang Sin và Bidoup Núi Bà (Lâm Đồng) chưa chuyển đổi đã bị ủi trắng.
Có lẽ, ai cũng hiểu rằng, những cánh rừng là nơi giữ cho đất không bị xói mòn, điều hòa không khí, đảm bảo nguồn nước và nhiều giá trị khác “Việt Nam có ít nhất 25 triệu người sống phụ thuộc vào rừng, trung bình khoảng 20% thu nhập (bằng tiền và hiện vật) của những người này là từ rừng” như nhận xét của TS. Phạm Thị Thu Thủy.
Mặt khác, rừng còn có những giá trị mà không phải thực thể tự nhiên nào cũng có được, đó là chức năng “gánh gồng”, góp phần giảm tải ô nhiễm không khí, một hiện trạng đang diễn ra khắp từ Bắc vào Nam trong những năm gần đây – “nếu như chúng ta so sánh giá trị trung bình của bụi PM2.5 hằng năm của các tỉnh với mức khuyến nghị của WHO (năm 2005 là 10µg/m3) thì sẽ thấy tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đều vượt mức đó”, theo PGS. TS Nguyễn Thị Nhật Thanh (ĐH Công nghệ, ĐHQGHN).
Ở Việt Nam, thách thức lớn trong việc ngăn ngừa các bệnh lây truyền từ động vật sang người là chưa ưu tiên nghiên cứu về các loại bệnh này (chỉ ưu tiên nghiên cứu 5 trong số 60 bệnh từ động vật). Quan trọng hơn, phần lớn những bệnh từ động vật hoang dã có tiềm năng thành đại dịch lại không được ưu tiên, theo công bố “Hàng thập kỷ đối phó bệnh truyền nhiễm mới nổi, an ninh lương thực và kháng kháng sinh ở Việt Nam: Vai trò của Một sức khỏe” xuất bản trên tạp chí One Health.
Nhưng trước mắt, khi mọi ảnh hưởng diễn ra chưa quá tồi tệ thì vai trò của rừng và sự đa dạng sinh học ở những cánh rừng này vẫn còn chưa được quan tâm một cách thực sự. “Đến khi có chuyện xảy ra thì người ta mới bắt đầu tính đến bài toán về rừng và nhận thấy những mất mát khi không có rừng”, TS. Phạm Thị Thu Thủy nói.
Về lâu dài, theo kinh nghiệm quốc tế, quá trình phá rừng, suy thoái rừng và chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ mang con người – vật nuôi và động vật hoang dã lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, quá trình này còn được thúc đẩy nhiều hơn với một hiện trạng khác: tình trạng buôn bán động vật hoang dã. Theo báo cáo mới của Trịnh Thị Mai (Tổ chức Save Vietnam’s Wildlife SVW) và cộng sự ở CIFOR, Đại học KHXH và Nhân văn, Học viện Ngoại giao và ĐH Nông Lâm TPHCM3, “các nước châu Á là trung tâm buôn bán động vật hoang dã trên toàn cầu.
Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam và Indonesia là những nước xuất khẩu động vật hoang dã lớn, trong khi Liên minh châu Âu và Nhật Bản là những thị trường nhập khẩu lớn nhất”. Vậy trong thời kỳ diễn ra COVID, tình trạng này có giảm đi? Báo cáo cho thấy, “mặc dù việc đóng cửa biên giới đã phần nào giảm số lượng buôn bán động vật xuyên quốc gia, có những bằng chứng cho thấy nạn săn bắt và buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp vẫn còn rất phổ biến trên khắp Việt Nam trong thời gian COVID”: từ Sơn La, Lạng Sơn đến TPHCM, Long An.
Mặt khác, Việt Nam không chỉ là nơi xuất khẩu động vật hoang dã mà còn là thị trường buôn bán động vật hoang dã làm thú nuôi hoặc thực phẩm. “Chỉ tính riêng trong năm 2019, đã có tối thiểu hơn 2.400 trường hợp quảng cáo động vật hoang dã trên Facebook, YouTube, Zalo, Tiktok và các trang web điện tử khác. Con số này vẫn chưa có dấu hiệu giảm trong những tháng đầu năm 2020, với 424 vụ vi phạm tính đến cuối tháng 4… Hơn nữa, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng quy mô và tần suất buôn bán động vật sẽ tăng trở lại trạng thái như trước COVID-19 khi các hạn chế được dỡ bỏ, cũng như bối cảnh sau đại dịch SARS vào đầu những năm 2000”, theo báo cáo.
Nguyễn Linh (T/h)