Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT 2020: Các quy định bảo đảm tính đầy đủ
Trong 3 ngày (từ 7/7 đến 9/7), Bộ TN&MT đã tổ chức 3 hội thảo trực tuyến tham vấn các địa phương ở 3 miền Bắc, Trung, Nam về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân cho biết: Luật BVMT năm 2020 sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 với nhiều nội dung mới, mang tính đột phá. Để cụ thể hóa những điểm mới được đặt ra trong Luật, Bộ TN&MT đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT. Đến nay, Dự thảo Nghị định gồm 13 Chương, 197 Điều đã được gửi đăng lấy ý kiến rộng rãi của tổ chức, cá nhân trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ, đồng thời gửi lấy ý kiến chính thức của các Bộ, ngành và địa phương.
Do khối lượng các quy định chi tiết trong Nghị định là rất lớn, nhiều nội dung mới, thay đổi căn bản so với các quy định hiện hành, nên cần những ý kiến đóng góp mang hơi thở của thực tiễn cuộc sống từ các địa phương nhằm bảo đảm tính khả thi của các quy định.
Dự thảo Nghị định có 11 nội dung chính
Giới thiệu về một số nội dung chính của Dự thảo Nghị định, ông Nguyễn Hưng Thịnh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho biết, Dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể nội dung về: Bảo vệ các thành phần môi trường (nước, không khí, đất và BVMT di sản thiên nhiên); Phân vùng môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường; Giấy phép môi trường, đăng ký môi trường; BVMT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đô thị, nông thôn và một số lĩnh vực; Quản lý chất thải (chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường, chất thải nguy hại, nước thải, bụi, khí thải đặc thù); Trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu; Quan trắc môi trường; Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường; Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; Bồi thường thiệt hại về môi trường; Công cụ kinh tế và nguồn lực bảo vệ môi trường.
Xác định bảo vệ các thành phần môi trường là mục tiêu quan trọng nhất theo tinh thần của Luật BVMT 2020, Dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể các nội dung BVMT nước, không khí, đất và di sản thiên nhiên. Theo đó, về BVMT nước, Dự thảo Nghị định quy định nội dung, trình tự, thủ tục ban hành kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh và sông, hồ nội tỉnh; mối liên hệ của kế hoạch với quy hoạch BVMT quốc gia; trách nhiệm của Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh trong việc lập, ban hành hoặc trình ban hành kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt.
Về BVMT không khí, Dự thảo Nghị định quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục ban hành kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí và kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh; trách nhiệm của Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh trong việc tổ chức thực hiện triển khai kế hoạch. Đặc biệt Dự thảo Nghị định cũng đã quy định cụ thể việc thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng cũng như việc xác định môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng cấp liên vùng, liên tỉnh và cấp tỉnh.
Về BVMT đất, Dự thảo Nghị định quy định các khu vực phải được điều tra, đánh giá, phân loại chất lượng môi trường đất; việc điều tra, đánh giá khu vực có khả năng bị ô nhiễm được thực hiện ở mức độ sơ bộ và khu vực bị ô nhiễm được thực hiện chi tiết. Trách nhiệm của Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh trong việc xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất ở khu vực ô nhiễm môi trường đất do lịch sử để lại hoặc không xác định được tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất ở khu vực ô nhiễm môi trường đất do mình gây ra.
Về BVMT di sản thiên nhiên, Dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể các tiêu chí để xác lập, công nhận di sản thiên nhiên khác; quy định việc xếp hạng các di sản thiên nhiên khác thành di sản thiên nhiên cấp tỉnh, quốc gia và quốc gia đặc biệt căn cứ vào quy mô, giá trị và tầm quan trọng. Đồng thời, Dự thảo Nghị định quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và thẩm quyền xác lập, công nhận di sản thiên nhiên khác; trình tự, thủ tục và thẩm quyền đề cử công nhận di sản thiên nhiên được tổ chức quốc tế công nhận. Quy định các biện pháp quản lý và BVMT di sản thiên nhiên, trách nhiệm của Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ VHTT&DL, các Bộ, ngành, địa phương trong việc điều tra, đánh giá, quản lý, BVMT di sản thiên nhiên.
Quy định trách nhiệm của cơ quan thường trực thẩm định cấp Giấy phép môi trường, việc tham vấn, lấy ý kiến trong quá trình cấp Giấy phép môi trường. Về nội dung chính của báo cáo đề xuất cấp Giấy phép môi trường, Dự thảo Nghị định quy định mức độ chi tiết của từng đối tượng, theo hướng đơn giản hoá nội dung báo cáo của dự án đầu tư đã được phê duyệt kết quả thẩm định Báo cáo ĐTM hoặc đối tượng thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND cấp huyện...
Bên cạnh đó, để làm rõ các điểm mới của Luật BVMT 2020, Dự thảo Nghị định đã tập trung quy định cụ thể về nội dung, trách nhiệm phê duyệt, công khai, thực hiện kế hoạch phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường; trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại và xác định thiệt hại về môi trường của các tổ chức, cá nhân.
Một số ý kiến được tiếp thu, giải trình
Xuyên suốt 3 cuộc hội thảo, hầu hết các ý kiến đều cho rằng: Dự thảo Nghị định đã được soạn thảo công phu, chi tiết, bám sát với tinh thần của Luật BVMT 2020. Bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với các văn bản pháp luật có liên quan như pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng, tài nguyên nước, khoáng sản, đất đai, thuế, phí… góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Dự thảo Nghị định cũng làm rõ các nội dung quản lý, xác định rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về BVMT; bảo đảm sự phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý Nhà nước về BVMT; tăng cường phân cấp cho địa phương.
Để một số quy định sát hơn với tình hình thực tế tại địa phương, các đại biểu đề xuất Bộ TN&MT làm rõ nội dung các từ ngữ, rà soát, chỉnh sửa các quy định liên quan đến đánh giá tác động môi trường, Giấy phép môi trường, bảo vệ môi trường làng nghề, ứng phó sự cố môi trường, quan trắc môi trường, kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí… Đồng thời bổ sung, chỉnh sửa quy định về quản lý chất thải, khoảng cách an toàn môi trường, việc phối hợp thanh tra, kiểm tra…
Nhiều ý kiến đã được Bộ TN&MT giải đáp ngay tại hội thảo. Đơn cử, tỉnh Khánh Hòa đề nghị bổ sung nội dung quản lý xả nước thải và xây dựng, ban hành, phân bổ hạn ngạch xả thải đối với các lưu vực sông liên tỉnh. Về 2 nội dung này, Tổng cục Môi trường cho rằng, Luật BVMT chỉ quy định việc đánh giá khả năng chịu tải của các con sông, hồ cũng như xác định mục tiêu giảm xả thải. Còn nội dung tỉnh Khánh Hòa đề xuất thì Luật không quy định cho nên không thể đưa các nội dung này vào Nghị định của Chính phủ.
Những góp ý sâu sắc, sát thực tiễn
Các đại biểu đều thống nhất với bố cục Dự thảo Nghị định, các quan điểm chính của Dự thảo; khẳng định Dự thảo là công cụ pháp lý vô cùng quan trọng để đưa Luật BVMT 2020 thực thi vào đời sống. Tuy nhiên, Ban soạn thảo cũng cần chỉnh sửa, bổ sung một số nội dung để khi triển khai trong thực tế đạt hiệu quả cao.
Ông Hà Sỹ Đồng - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị:
Dự thảo Nghị định đã thể hiện tinh thần phân cấp khá mạnh cho địa phương, trong đó có nhiều nội dung giao UBND cấp tỉnh thực hiện. Chúng tôi cơ bản thống nhất với bố cục, cấu trúc và nội dung Dự thảo Nghị định. Tuy nhiên, trong Nghị định này có 39 Điều cần có văn bản hướng dẫn của Bộ TN&MT mới thực thi được. Do đó, tôi đề nghị Bộ TN&MT chỉ ban hành văn bản hướng dẫn kỹ thuật, còn những quy định mang tính pháp lý, nên quy định cụ thể trong Nghị định này để đảm bảo tính thực thi, dễ triển khai thực hiện.
Trong Chương II về Bảo vệ các thành phần môi trường, theo Dự thảo Nghị định, UBND cấp tỉnh phải ban hành các kế hoạch: quản lý chất lượng môi trường nước mặt sông, hồ nội tỉnh; quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh; điều tra, đánh giá và xây dựng phương án xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất khu vực bị ô nhiễm… Khi xây dựng các kế hoạch này, cần có nguồn ngân sách và phải thông qua HĐND cấp tỉnh, do đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu xem xét phương án này, tùy thuộc vào đặc điểm của từng tỉnh để xây dựng kế hoạch chung, thực hiện cho hiệu quả.
Về tinh thần cải cách thủ tục hành chính: Luật BVMT 2020 đã giảm bớt thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là việc tích hợp 7 thủ tục hành chính vào 1 hồ sơ Giấy phép môi trường, do đó, Nghị định cũng phải quy định theo phương châm này, không phát sinh thủ tục hành chính mới so với Luật, tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở chấp hành nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường.
Ông Ngô Chí Trung - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Đắk Nông:
Chúng tôi kiến nghị bổ sung thêm đối tượng là các trang trại chăn nuôi tập trung, các cơ sở chăn nuôi gia súc gia cầm vào thực trạng nguồn gây ô nhiễm điểm và nguồn gây ô nhiễm diện phát sinh gây ô nhiễm môi trường nước. Bổ sung đối tượng phải điều tra đánh giá phân loại chất lượng môi trường đất đối với khu vực nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của người dân tại khu vực này, có tác động rõ rệt đối với cây trồng công nghiệp, hoa màu… Bổ sung đánh giá thành phần môi trường nước mặt đối với ao, suối, đầm lầy, đất ngập nước, các đập chứa nước ngọt (trong Dự thảo mới chỉ đề cập đến việc đánh giá chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ).
Về nội dung phân vùng môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM, chúng tôi xin kiến nghị bổ sung và làm rõ thêm: Trong tham vấn ĐTM, để đảm bảo tiến độ triển khai các dự án đầu tư, kiến nghị thời gian đăng tải ĐTM trên trang thông tin của cơ quan thường trực thẩm định để lấy ý kiến tham vấn trong thời gian 15 ngày.
Bổ sung làm rõ hơn hình thức tham vấn ĐTM đối với các đối tượng cụ thể. Nếu không có ý kiến góp ý thì có được xem là hợp lệ không? Hoặc trong trường hợp có ý kiến phản đối thì quá trình thực hiện dự án, chủ đầu tư có tiếp tục trình cấp có quyền thẩm định ĐTM hay không? Ngoài ra, đề nghị bổ sung thời gian khung giờ phát sinh tiếng ồn để có cơ sở so sánh với quy chuẩn Việt Nam về giới hạn cho phép của tiếng ồn. Cần có quy định rõ về khoảng cách an toàn môi trường.
Về quản lý chất thải, chúng tôi kiến nghị bổ sung trách nhiệm của cơ quan ban hành định mức thu gom vận chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt để làm cơ sở cho địa phương và chủ đầu tư xây dựng giá dịch vụ thu gom vận chuyển xử lý chất thải rắn trên địa bàn. Trong xử lý chất thải nguy hại, chất thải được phân định theo mã, danh mục. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định về pin phát sinh từ nhà máy điện mặt trời, do đó, cần có quy định quy thể.
Bà Nguyễn Thị Thanh Mỹ - Phó Giám đốc Sở TN&MT TP.HCM:
Dự thảo Nghị định đã quy định khá chi tiết các điều quy định trong Luật BVMT 2020. Về nội dung quản lý chất thải rắn, trong Dự thảo đã nêu rõ trách nhiệm của UBND các xã về việc triển khai phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 73 của Dự thảo Nghị định. Chúng tôi đồng thuận cao với quy định này. Tuy nhiên, cần bổ sung giải thích thêm từ ngữ liên quan chất thải hữu cơ và chất thải thực phẩm, bổ sung về đặc tính, quy cách về bảo vệ bao bì lưu giữ chất thải theo từng nhóm chất thải tại Điều 83; bổ sung trách nhiệm của Bộ NN&PTNT trong Khoản 5, Điều 92 về quản lý chất thải rắn hữu cơ làm thức ăn chăn nuôi.
Đối với nội dung vận hành các công trình xử lý chất thải sau khi được cấp phép môi trường. Theo Khoản 2 của Dự thảo, căn cứ vào Giấy phép môi trường được cấp, chủ dự án đầu tư trước khi vận hành thử nghiệm toàn bộ dự án thì phải lập kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải. Đối với Khoản này, chúng tôi đề xuất quy định rõ thời gian thực hiện và kế hoạch vận hành thử nghiệm đến cơ quan quản lý. Khoản 3 Điều này có ghi thời gian vận hành công trình xử lý chất thải tối đa 6 tháng kể từ thời điểm tiến hành thử nghiệm… đề nghị bổ sung quy mô, công suất hoạt động thử nghiệm của dự án để có thể đánh giá kết quả của xử lý… Đề nghị hướng dẫn cách giải quyết với trường hợp đã vận hành thử nghiệm công trình nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu; hướng dẫn cụ thể thời điểm chủ đầu tư thực hiên thủ tục Giấy phép môi trường sau khi phê duyệt DTM, nếu 1 trong các Giấy phép môi trường thành phần hết hiệu lực như giấy phép xả thải và các giấy phép khác không có thời hạn thì chủ dự án có phải thực hiện mới Giấy phép môi trường hay không, hay sau 5 năm mới thực hiện?
Ông Mai Trọng Thái - Phó Giám đốc Sở TN&MT Hà Nội:
Đối với quy định về bảo tồn di sản thiên nhiên, đề nghị ghi rõ cơ quan chuyên môn về BVMT cấp tỉnh là Sở TN&MT cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn BVMT cấp huyện là Phòng TN&MT cấp huyện. Về BVMT đất, đề nghị làm rõ nội dung kế hoạch quản lý chất lượng môi trường đất cấp tỉnh, qua đó đánh giá tác động sinh thái để có phương án phục hồi, cải tạo. Về BVMT di sản thiên nhiên, đề nghị bổ sung căn cứ, quy định di sản thiên nhiên cấp tỉnh, cấp quốc gia và cấp quốc tế. Khoản 2, Điều 19 quy định hội đồng thẩm định là tổ chức thẩm định hồ sơ gửi công nhận di sản thiên nhiên, đề nghị bổ sung đại diện là Bộ VHTT&DL.
Đề nghị tiêu chí về môi trường, phân loại dự án đầu tư, cần bổ sung xác định công suất của dự án theo 3 loại: lớn, trung bình, nhỏ. Giấy phép đăng ký môi trường cần bổ sung đối tượng theo quy mô công suất, công nghệ sản xuất và hoặc thay đổi khác làm tăng tác động xấu đến môi trường. Trường hợp nào thuộc đối tượng cần ĐTM, trường hợp nào thuộc đối tượng cấp lại Giấy phép môi trường. Về điều kiện BVMT làng nghề, đề nghị sửa thành: phương án BVMT làng nghề do UBND cấp xã xây dựng, trường hợp cần thiết phương án này điều chỉnh bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Ông Vũ Đình Thủy - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Lào Cai:
Liên quan đến hoạt động cải tạo môi trường trong hoạt động chôn lấp chất thải, tại Điều 86 Dự thảo có quy định kinh phí phục hồi môi trường cho hoạt động chôn lấp chất thải, kinh phí này cũng tương đồng với kinh phí cải tạo môi trường trong khai thác khoáng sản… đề nghị điều chuyển điều này về mục kinh phí cải tạo môi trường, bảo vệ phục hồi môi trường và thống nhất chi phí BVMT cho hoạt động chôn lấp chất thải thành chi phí cải tạo, phục hồi môi trường trong chôn lấp chất thải, đồng thời thống nhất các bước thực hiện trong Báo cáo ĐTM tương tự như phương cải tạo phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản.
Về quy định khoảng cách an toàn với khu dân cư tại Điều 62, đề nghị xem xét bổ sung quy định cụ thể khoảng cách an toàn của các dự án đến khu dân cư là bao nhiêu và có thể quy định theo phân nhóm, loại hình. Đề nghị bổ sung giải pháp, lộ trình, kế hoạch xử lý đối với các cơ sở không đáp ứng được khoảng cách an toàn về môi trường.
Về quản lý chất thải, lộ trình xử lý chất thải rắn bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp theo Khoản 3, Điều 68 quy định các tỉnh thành không thuộc Khoản 1 của Điều này thì đến năm 2030 đảm bảo tỉ lệ chôn lấp trực tiếp <50%. Đề nghị làm rõ tỉ lệ này là chất thải đô thị hay nông thôn hay cả đô thị và nông thôn?
Tống Minh - Hoàng Ngân (ghi)
Đối với ý kiến cho rằng, có sự khác biệt giữa đối tượng đánh giá tác động môi trường sơ bộ (ĐTM) trong Nghị định số 54/2021/NĐ-CP do Chính phủ ban hành với đối tượng đánh giá sơ bộ ĐTM trong Nghị định này, Bộ TN&MT khẳng định, khi Luật BVMT 2020 và Nghị định này có hiệu lực, Nghị định 54/2021/NĐ-CP sẽ hết hiệu lực, do đó sẽ không có mâu thuẫn nữa.
Đối với đề nghị tăng thời hạn giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường từ 3 năm lên 5 năm, Bộ cho rằng, theo quy định hiện tại của hệ thống công nhận phòng thí nghiệm theo tiêu chuẩn ISO 17025 thì thời hạn giấy chứng nhận hiện nay là 3 năm. Giấy chứng nhận theo quy định của luật mới sẽ mở rộng phạm vi và đối tượng áp dụng. Cụ thể, giấy chứng nhận sẽ chứng nhận cho các tổ chức đo đạc khí thải ô tô, xe máy theo quy định của Luật 2020 và mở rộng thêm cho các đối tượng là các tổ chức quan trắc, phân tích các chất độc hại trong sản phẩm hàng hóa. Do đó, quy định này cần giữ nguyên thời hạn 3 năm.
Bên cạnh việc giải trình thắc mắc của các địa phương, Bộ cũng tiếp thu, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung một số nội dung về quản lý chất thải; trình tự thủ tục ban hành quản lý chất lượng môi trường không khí nước mặt. Để các quy định phù hợp với thực tiễn, Bộ sẽ xem xét rút ngắn thời gian tham vấn cộng đồng công khai trên website của cơ quan thẩm định từ 30 ngày xuống mức phù hợp; giảm thời hạn liên quan đến hiệu lực thông báo kết quả họp của hội đồng thẩm định từ 24 tháng xuống còn 12 tháng; đối với chất thải y tế sẽ nghiên cứu bổ sung thêm về mô hình xử lý chất thải y tế theo mô hình cụm;…
Mai Chi
Theo Báo TN&MT