Điện gió ngoài khơi - nguồn điện thế hệ mới cho phát triển kinh tế
Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2018 về Chiến lược kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã xác định, một trong những nội dung quan trọng của ngành kinh tế biển là năng lượng biển mới, trong đó có điện gió ngoài khơi.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, nước ta có có tiềm năng lớn là 1 trong 5 trung tâm điện gió ngoài khơi của thế giới (cùng với Bắc Âu, Mỹ, Đông Á, Nam Mỹ). Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) nhận định, năm 2050 thị trường điện gió khơi thế giới có thể đạt 1000 tỉ USD.
Hiện nay, Việt Nam chưa có chiến lược, lộ trình cụ thể phát triển ngành điện gió ngoài khơi đến 2050. Do đó, nước ta cần sớm có chiến lược về điện gió ngoài khơi, được quy hoạch tích hợp với các ngành kinh tế biển khác, đồng thời cần có chương trình nghiên cứu khoa học về điện gió ngoài khơi và năng lượng tái tạo, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học ngành năng lượng.
Phù hợp xu hướng phát triển năng lượng xanh
Biến đổi khí hậu, phát thải nhà kính từ các hoạt động sản xuất đang khiến cho Việt Nam khó khăn hơn khi tiếp cận Mục tiêu thiên niên kỷ là đảm bảo phát triển kinh tế trong môi trường mang tính bền vững. Xu hướng phát triển năng lượng xanh trên thế giới, trong đó có điện gió ngoài khơi là giải pháp đột phá.
Ngày 11/2/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, có nội dung: “Đối với điện gió và điện mặt trời: Ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý. Khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái và trên mặt nước. Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam”.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2019, Việt Nam có tiềm năng 475 GW điện gió ngoài khơi tại vùng biển từ bờ ra đến 200 km. Trong khi đó, tổng công suất các nhà máy điện của Việt Nam đang hoạt động là 40 GW, sử dụng các nguồn chính là thủy điện, nhiệt điện than và cơ bản đang dần cạn kiệt. Điều này cho thấy tiềm năng điện gió ngoài khơi gấp nhiều lần công suất hiện có và hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu điện năng trong hiện tại và tương lai.
Vùng ven biển nước ta, đặc biệt là vùng ven biển phía Nam có diện tích rộng khoảng 142.000 km2 có độ sâu từ 0 đến 60 m cho tiềm năng phát triển điện gió biển rất cao. Vùng này đạt tốc độ gió trung bình tại độ cao 100 m đạt hơn 7-10 m/s. Hiện nay trang trại gió biển Bạc Liêu đầu tiên với công suất 100 MW đã hoạt động, cung cấp khoảng 300 triệu kWh/năm; tới năm 2025 dự kiến công suất lên tới 1000 MW, cung cấp 3 tỉ kWh/năm.
Hiện nay tại nước ta, các trang trại tua bin gió tại Bạc Liêu đã hoạt động tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trang trại gió biển hiện đóng góp ngân sách cho địa phương với nguồn thu ổn định như: tỉnh Bạc Liêu đạt 76 tỉ đồng/năm, khi hoàn thành trang trại gió 1000 MW sẽ lên tới gần 760 tỉ đồng mỗi năm.
Theo dự báo của Tổ chức năng lượng thế giới (IEA), Việt Nam sẽ là 1 trong 5 trung tâm điện gió biển của thế giới cùng với Bắc Âu, Mỹ, Đông Á, Nam Mỹ. Tính đến tháng 9/2020, nước ta đã có tổng số dự án điện gần bờ là 67 dự án với công suất là gần 10 GW và 14 dự án điện gió ngoài khơi với tổng công suất là gần 30 GW, tức tổng số dự án sắp triển khai sẽ là 40 GW.
Hiện nay, Dự án Thăng Long ngoài khơi Bình Thuận lớn nhất thế giới với công suất 3,4 GW đã thực hiện đo gió xong giai đoạn 1 (2019-2020) và sẽ bước sang giai đoạn 2 (2021-2025) triển khai xây dựng và phát điện vào lưới quốc gia. Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn (Bình Thuận) 3,5 GW đang trong quá trình nghiên cứu khả thi từ năm 2020 và có thể hoàn thành trước năm 2030 sẽ mang lại vị thế cường quốc điện gió ngoài khơi với vị trí nằm trong top 5 cho Việt Nam. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 trong danh sách các quốc gia có điện gió ngoài khơi.
Cần có chiến lược phát triển điện gió ngoài khơi
Tài nguyên năng lượng gió ngoài khơi là nguồn năng lượng mới và đang được đầu tư phát triển mạnh nhất trên thế giới trong thời đại ngày nay. Năng lượng gió trên biển được chuyển đổi thành điện năng nhờ các tuốc bin gió và được chế tạo với tuổi thọ cao hơn phù hợp với điều kiện khắc nghiệt trên biển. Mặt khác, các trang trại năng lượng gió ngoài khơi sẽ là những điểm tham quan, du lịch học tập, là “mắt thần” giúp tăng cường bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển của Tổ quốc.
Với các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã ban hành về phát triển năng lượng tái tạo biển, điện gió ngoài khơi, năng lượng sóng, thủy triều và hải lưu, các nguồn vốn lớn và công nghệ điện gió ngoài khơi từ Liên minh châu Âu dễ dàng tham gia phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Đây là cơ hội cho Việt Nam có tiềm năng, đột phá đi đầu ASEAN, trở thành một trung tâm điện gió ngoài khơi lớn của thế giới và thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ biển hỗ trợ và tương lai xuất khẩu điện gió ngoài khơi sang khu vực ASEAN và lân cận.
Để thực hiện được điều này, các nhà khoa học về năng lượng tái tạo biển đều cho rằng, nước ta cần có các chính sách quốc gia về điện gió ngoài khơi như: sớm xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển điện gió ngoài khơi; sớm có quy hoạch không gian biển cho phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam đi kèm với Kế hoạch hành động quốc gia về lộ trình các bước phát triển năng lượng gió biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện được khung thể chế chính sách quốc gia về cấp phép, thẩm định, đánh giá tác động môi trường, giao thuê biển, phát triển các dự án điện gió ngoài khơi và các năng lượng biển khác.
Bên cạnh đó, nước ta cần nhanh chóng xây dựng, cập nhật hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về chính sách giá mua điện, đấu nối lưới điện quốc gia, chính sách thuê mặt biển, chính sách thuế các bon của quốc gia; thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học về điện gió ngoài khơi, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ; nghiên cứu đề án tích hợp phát triển kinh tế biển dựa vào điện gió ngoài khơi; đề án chuỗi cung ứng dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ và nhân lực phục vụ năng lượng gió biển; xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách đặc thù cho các dự án điện gió ngoài khơi xa bờ có công suất lớn hơn 500 MW. Đồng thời, các bộ, ngành, đơn vị và các nhà khoa học liên quan cần tăng cường hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, thử nghiệm công nghệ điện tái tạo biển mới, tích hợp các ngành kinh tế biển và năng lượng tái tạo biển, tham gia thành viên các tổ chức quốc tế về điện gió ngoài khơi, Tổ chức Năng lượng Đại dương thế giới.