Các nhà đầu tư EU tin tưởng vào môi trường kinh doanh của Việt Nam
Ủy ban châu Âu cho biết Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 16 của EU trên thế giới và là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU trong ASEAN - đối tác thương mại lớn thứ ba của EU bên ngoài châu Âu.
Chuyên trang Vietnam Briefing của hãng tư vấn đầu tư nước ngoài Dezan Shira & Associates ngày 13/5 đăng bài phân tích xu hướng gia tăng đầu tư của Liên minh châu Âu (EU) vào Việt Nam và lý do Việt Nam trở thành đối thủ cạnh tranh “đáng gờm” về thu hút đầu tư nước ngoài ở Đông Nam Á.
Theo bài viết, với kim ngạch ngoại thương đạt khoảng 41,3 tỉ USD, Liên minh châu Âu hiện là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Ủy ban châu Âu (EC) cho biết Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 16 của Liên minh châu Âu trên thế giới và là đối tác thương mại lớn thứ hai của Liên minh châu Âu trong ASEAN - đối tác thương mại lớn thứ ba của Liên minh châu Âu bên ngoài châu Âu (sau Mỹ và Trung Quốc).
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Liên minh châu Âu sang Việt Nam là sản phẩm công nghệ cao, gồm máy móc-thiết bị điện, máy bay, xe cộ và dược phẩm, trong khi các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Liên minh châu Âu là điện thoại, sản phẩm điện tử, giày dép, dệt may, cà phê, gạo, thủy sản và đồ nội thất.
Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực giúp tăng khả năng cạnh tranh giữa các thị trường Liên minh châu Âu và Việt Nam. EVFTA có nghĩa là thuế quan được miễn giảm và các mối quan hệ thương mại và kinh doanh được làm sâu sắc hơn.
Đây là cơ hội lớn cho các công ty thuộc Liên minh châu Âu. Hiệp định mở ra khả năng tiếp cận nhiều với một thị trường mới nổi gần 100 triệu dân, trong đó có khoảng 55 triệu công nhân. Ngoài ra, hiệp định còn mở ra cơ hội đối tác, đối thoại, hợp tác và tạo mối quan hệ bền chặt hơn với khu vực Đông Nam Á.
Trong khi đó, việc phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVIPA), trong đó Liên minh châu Âu và Việt Nam quyết định tạo thuận lợi về môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp hai bên (bao gồm cả việc tăng cường khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là sở hữu trí tuệ), tạo thuận lợi hơn cho các công ty thuộc Liên minh châu Âu đầu tư vào lĩnh vực bị hạn chế trước đây. Ví dụ, tỉ lệ sở hữu nước ngoài tối đa trong các ngân hàng thương mại đã tăng từ 30% lên 49%.
Theo bài viết, đây là những yếu tố khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư của Liên minh châu Âu, đồng thời cho thấy tiềm năng và tầm quan trọng ngày càng tăng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á.
Trong khi đó, cuộc khảo sát về chỉ số môi trường kinh doanh quý I/2021 do Phòng Thương mại châu Âu (EuroCham) thực hiện cho thấy, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp châu Âu vẫn tin tưởng vào nền kinh tế Việt Nam. Theo EuroCham, hiệu quả hoạt động trong quý II/2021 dự đoán sẽ tiếp tục cải thiện.
Tuy nhiên, cuộc khảo sát cũng lưu ý rằng “thủ tục hành chính” là thách thức lớn nhất để tận dụng lợi thế của EVFTA.
Cùng ngày, Viện Nghiên cứu Thương mại quốc tế thuộc Hiệp hội thương mại quốc tế Hàn Quốc (KITA) công bố báo cáo cho biết Việt Nam đã và đang được chú ý như một thị trường đầu tư hấp dẫn ở Đông Nam Á. Theo KITA, xuất khẩu và đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào Việt Nam đang gia tăng.
Từ năm 2017, Việt Nam vươn lên nằm trong nhóm 3 nước xuất khẩu nhiều nhất sang Hàn Quốc, sau Trung Quốc và Mỹ. Năm ngoái, số doanh nghiệp Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam là 3.324 doanh nghiệp, nhiều hơn Trung Quốc với 2.233 doanh nghiệp.
Đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam năm 2019 đạt 8,3 tỉ USD, chiếm 21,4% tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nước này (39 tỉ USD).
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo trên, rủi ro thương mại cũng gia tăng khi quy mô thương mại của Việt Nam mở rộng, quy chế nhập khẩu đối với các sản phẩm của Việt Nam bị siết chặt.
Trong thời kỳ hậu Covid-19, khi các doanh nghiệp toàn cầu đổ xô vào Việt Nam, rủi ro thị trường cũng tăng lên bởi rất khó để đảm bảo nguồn nhân lực có tay nghề cao và cơ sở hạ tầng.
Do vậy, một nhà nghiên cứu cấp cao của KITA cho rằng chính phủ lẫn các công ty Hàn Quốc cần chủ động phối hợp với Chính phủ Việt Nam xây dựng một mạng lưới ứng phó với những rủi ro.
Thu Hằng - Thọ Anh