Tín dụng xanh vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu thực tế
Tại Việt Nam, mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong việc triển khai tín dụng xanh. Tuy nhiên, tổng giá trị tín dụng xanh vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế, đặt ra nhiều câu hỏi về hiệu quả và tiềm năng của lĩnh vực này.
Tín dụng xanh là các khoản vay hoặc hỗ trợ tài chính dành cho các dự án, doanh nghiệp có mục tiêu bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tại Việt Nam, tín dụng xanh được coi là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững, đồng hành với các nỗ lực của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải theo cam kết tại Hội nghị COP26. Tuy nhiên, tổng giá trị tín dụng xanh hiện nay tại Việt Nam vẫn còn ở mức thấp so với nhu cầu thực tế.

Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, đến 30/9/2024 đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh với dư nợ đạt trên 665.000 tỷ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2023, chiếm tỷ trọng trên 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế; tập trung ở hai lĩnh vực là ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và nông nghiệp xanh. Mặc dù con số này đã tăng đáng kể so với những năm trước, nhưng vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng và nhu cầu thực tế.
Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) , Việt Nam cần huy động khoảng 368-380 tỷ USD, tương đương 20 tỷ USD mỗi năm, cho phát triển xanh từ nay đến năm 2040. Nhu cầu vốn xanh của Việt Nam là vô cùng lớn và đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ cả khu vực công và tư.
Mặc dù vậy, theo thống kê, khoảng 65% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để thực hiện các dự án xanh. Dù đã có các cơ chế tài chính hỗ trợ, việc phân bổ vốn xanh đến đúng đối tượng vẫn là một thách thức.
Trả lời trên Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, ông Phạm Văn Quang, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên cho biết, không ít đơn vị có kế hoạch mở rộng sản xuất, đầu tư dự án xanh, nâng cấp các thiết bị công nghệ để chuyển đổi xanh, nhưng bị “kìm chân” vì khó tiếp cận vốn “xanh”.
Còn ông Nguyễn Thái Việt Huy, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Saty Holding cho biết, chính sách tín dụng xanh vẫn đang được các ngân hàng thương mại phê duyệt theo công thức cũ, tức là phải có tài sản thế chấp, hợp đồng kinh doanh… Điều này khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận vốn xanh.
Trong phiên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng thừa nhận, Ngân hàng Nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ, ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng có căn cứ đối chiếu. Còn đối với đầu tư vào lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị lớn và kì hạn dài, đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng ngắn hạn.
Thực tế, mặc dù Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích tín dụng xanh, như Quyết định số 1604/QĐ-NHNN về Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp lý liên quan đến tín dụng xanh vẫn chưa hoàn thiện. Các tiêu chí xác định dự án xanh, quy trình thẩm định và giám sát rủi ro môi trường còn thiếu rõ ràng, khiến các ngân hàng gặp khó khăn trong việc triển khai.
Cùng với đó, các dự án xanh thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian hoàn vốn dài, trong khi rủi ro về công nghệ, thị trường và chính sách lại cao. Điều này khiến nhiều ngân hàng e ngại khi cấp tín dụng cho các dự án xanh, đặc biệt là các dự án nhỏ và vừa do thiếu nguồn lực và kinh nghiệm thẩm định.
Ngoài ra, nhận thức về tín dụng xanh trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về lợi ích của tín dụng xanh, trong khi các ngân hàng cũng chưa có đủ năng lực để tư vấn và hỗ trợ khách hàng tiếp cận nguồn vốn này. Bên cạnh đó, việc thiếu các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực môi trường và công nghệ xanh cũng là một trở ngại lớn.
Để tăng tổng giá trị tín dụng xanh và đáp ứng nhu cầu thực tế, chuyên gia cho rằng, cần xây dựng các Hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường, xã hội của các dự án đầu tư theo hướng cập nhật, dễ dàng tiếp cận làm cơ sở để các tổ chức tín dụng có thể tra cứu thông tin nhằm đánh giá rủi ro về môi trường và xã hội.
Tiếp theo là hỗ trợ, tạo điều kiện nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp dần tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế. Việc nữa là sớm trình Thủ tướng ban hành quyết định về tiêu chí môi trường đối với các dự án đầu tư được cấp tín dụng, phát hành trái phiếu xanh để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng cấp tín dụng.
Cuối cùng, là xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ ví dụ như thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả các nguồn vốn tín dụng xanh.
H.A