Phó Thủ tướng yêu cầu Hà Nội trình Dự án Vành đai 4 trước ngày 25/12
Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 111,2 km, gồm 102,2 km đường vành đai 4 và 9 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long.
Vừa qua, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 341/TB-VPCP ngày 20/12/2021 kết luận của Phó Thủ tướng Lê Văn Thành tại cuộc họp xem xét việc thực hiện Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội.
Cụ thể, Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội (Dự án) đã có trong Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 1/9/2021. Việc triển khai Dự án nhằm mục tiêu cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, phấn đấu đến năm 2030 cả nước có khoảng 5.000 km đường cao tốc.
Đồng thời, để bảo đảm tiến độ trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư Dự án vào kỳ họp tháng 5 năm 2022, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành yêu cầu UBND thành phố Hà Nội tiếp thu các ý kiến, làm việc với các địa phương có liên quan để điều chỉnh phạm vi, quy mô đầu tư các dự án thành phần; Trong đó, tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia dự án thành phần đầu tư theo phương thức PPP không quá 50% tổng mức đầu tư theo đúng quy định.
Với các địa phương cần có nghị quyết của HĐND hoặc văn bản của thường trực HĐND về việc chấp thuận triển khai Dự án (trường hợp thường trực HĐND có văn bản, trước khi phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi phải có nghị quyết của HĐND).
Trước ngày 25/12/2021, UBND TP.Hà Nội có tờ trình Chính phủ, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổ chức thẩm định.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục thẩm định sau khi có Tờ trình của UBND thành phố Hà Nội, bảo đảm tiến độ trình Bộ Chính trị, Quốc hội; Trong đó có ý kiến đề xuất cơ quan trình Bộ Chính trị, cơ quan trình Quốc hội.
Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 111,2 km, gồm 102,2 km đường vành đai 4 và 9 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Dự án đi qua địa phận TP.Hà Nội (58,2 km); Hưng Yên (19,8 m); Bắc Ninh (24,2 km).
Gần đây nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 8721/BKHĐT-GSTĐĐT gửi UBND TP.Hà Nội đề nghị giải trình, làm rõ hồ sơ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội (gọi tắt là Dự án Vành đai 4).
Thông tin cho biết, đây là lần thứ hai trong vòng chưa đầy 2 tháng, cơ quan này đặt ra yêu cầu nói trên đối với UBND TP.Hà Nội trong vai trò là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Dự án Vành đai 4.
Trong Công văn số 8721, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, báo cáo giải trình mới nhất của UBND TP.Hà Nội (tại Công văn số 3751/UBND-ĐT, ngày 28/10/2021) chưa tập trung vào các nội dung yêu cầu của Hội đồng Thẩm định Nhà nước tại Công văn số 7175/BKHĐT-GSTĐĐT.
Nội dung giải trình còn mang tính chung chung là chỉ đạo tư vấn hoàn thiện ở bước tiếp theo; số liệu một số tài liệu dẫn chiếu còn chưa thống nhất; chưa bám sát yêu cầu chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Hồ sơ Dự án đề xuất hệ thống đường vành đai 4 gồm có tuyến đường cao tốc đi trên cao 6 làn xe và đường đô thị 2 bên rộng 12 m, có vai trò kết nối Vùng Thủ đô Hà Nội, nhưng lại chưa thể hiện được vị trí các khu đô thị hai bên, nên chưa có cơ sở để xem xét về sự cần thiết cũng như vai trò hệ thống đô thị hai bên.
Cùng với đó, quy mô giải phóng mặt bằng (GPMB) được UBND TP. Hà Nội đề xuất bao gồm cả dải đất cho hệ thống đường sắt đô thị theo quy hoạch.
Điều đáng nói là, tuyến đường sắt đô thị đề xuất trong Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi chỉ là sơ bộ, chưa có cơ sở xác định vị trí tuyến cũng như quy mô, vai trò và sự kết nối trong hệ thống quy hoạch, chưa xác định được thời điểm đầu tư, nên việc GPMB chưa đủ cơ sở.
Trước đó, tại Công văn số 3751, UBND TP.Hà Nội đề xuất cơ cấu vốn thực hiện Dự án Vành đai 4 gồm: Vốn ngân sách nhà nước 65.970 tỷ đồng; Vốn nhà đầu tư 29.075 tỷ đồng (vốn chủ sở hữu: 4.361 tỷ đồng, vốn vay: 24.714 tỷ đồng).
Với cơ cấu nói trên, Hội đồng Thẩm định Nhà nước nhấn mạnh, Dự án có mức vốn nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chiếm 72% tổng mức đầu tư, vượt mức quy định tại khoản 2, Điều 69, Luật Đầu tư theo phương thức PPP, dẫn đến lợi thế thu hút vốn đầu tư không còn nhiều.
Bùi Hằng (T/h)