Ô nhiễm vi nhựa ở Việt Nam báo động mức độ ô nhiễm
Tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm rác thải nhựa đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho sự phát triển bền vững.
Đặc biệt, việc phân loại rác tại nguồn, tái sử dụng, tái chế, xử lý rác thải chưa đồng bộ, hiệu quả; các giải pháp giảm thiểu chất thải rắn trong sinh hoạt chưa được chú trọng, việc áp dụng các công nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi trường còn hạn chế.
Theo báo cáo của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN 2017), ước tính lượng phát thải vi nhựa hàng năm có nguồn gốc từ hóa dầu vào môi trường tương đương khoảng 11,7 triệu tấn. Trong đó, 3,2 triệu tấn nhựa từ các nguồn khác nhau đã ở dạng vi nhựa trước khi phát tán ra môi trường (được gọi là “vi nhựa sơ cấp”), cùng với 8 triệu tấn khác được tạo ra do sự phân rã của các mảnh nhựa lớn khác tồn tại trong môi trường.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi sự đánh giá chính xác hơn nữa về vi nhựa và kiểm soát vi nhựa nhằm đẩy lùi ô nhiễm nhựa. Trong một báo cáo về “Vi nhựa trong nước uống” được công bố bởi WHO năm 2019, các tác động lên sức khỏe con người do vi nhựa, các chất hóa học từ vòi nước và nước uống là không đáng kể, tuy nhiên các tác động gián tiếp lên con người từ các hệ sinh thái, chuỗi thức ăn bị ô nhiễm nhựa đáng báo động.
Ô nhiễm môi trường biển
Thông qua dự án COMPOSE (Xây dựng trung tâm quan trắc về nhựa trong xã hội và môi trường), Tiến sỹ Emilie Strady, chuyên gia Viện nghiên cứu vì sự Phát triển Pháp (IRD) đã tiến hành đánh giá nồng độ vi nhựa trong các môi trường nước ngọt và biển ở Việt Nam cho thấy phạm vi ô nhiễm vi nhựa có liên quan đến các hoạt động nhân sinh xung quanh sử dụng nhựa như nghề cá, nuôi trồng thủy sản, hộ gia đình, bãi rác, áp lực đô thị lên môi trường và việc thải trực tiếp nước thải, đã qua xử lý hoặc chưa qua xử lý.
Nồng độ vi nhựa được quan sát thấy ở các vịnh thấp hơn nồng độ vi nhựa được ghi nhận tại các sông. Cụ thể, ở các sông, vi nhựa thể hiện sự biến đổi nồng độ đa dạng từ 2,3 hạt/m3 ở sông Hồng đến 2.522 hạt/m3 ở sông Tô Lịch với nồng độ thấp hơn ở sông chính và nồng độ cao hơn ở các sông nhỏ và đô thị, đặc biệt ở các vùng tiếp nhận nước thải chưa qua xử lý. Trong các vịnh, nồng độ vi nhựa thay đổi từ 0,4 hạt/m3 ở vịnh Cửa Lục đến 28,4 hạt/m3 ở cửa sông Dinh.
Có hai nguồn phát thải vi nhựa ra môi trường gồm nguồn sơ cấp do sản xuất hạt nhựa, mài mòn công nghệ, in 3D, mỹ phẩm… nguồn thứ cấp do phân rã từ chất thải nhựa lớn do tia UV, nhiệt, sống…Nhiều hạt vi nhựa có trong nước ở các sông do hoạt động của con người và do chất thải thải ra sông, từ sông đổ ra biển.
Vi nhựa gây tác hại nghiêm trọng đến sinh vật và khí quyển
Bà Lê Kiều Thủy Chung, Khoa Kỹ thuật địa chất và Dầu khí, Trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh cho biết: Theo nghiên cứu của trường, vi nhựa đã được tìm thấy trong các cơ quan khác nhau của các loài sinh thủy sinh ở Việt Nam, trong đó, cơ quan tiêu hóa và mang là nơi tích lũy phần lớn các vi nhựa. Mức độ ô nhiễm vi nhựa trong thủy sinh ở Việt Nam tương đối cao so với các sinh vật hai mảnh vỏ ở châu Âu hay một số loài cá ở vùng biển Địa Trung Hải.
Ngoài ra, tác động của các hoạt động tại địa phương như: Áp lực dân số cao, hoạt động sản xuất công nghiệp và quy trình xử lý nước thải dẫn đến sự tích lũy vi nhựa dạng sợi nhiều hơn so với dạng mảnh. Điều này dẫn đến việc lan truyền và tích lũy vi nhựa cũng như các chất ô nhiễm khác từ sinh vật bậc thấp đến sinh vật bậc cao và thậm chí là trong cơ thể con người thông qua chuỗi thức ăn. Với kích thước nhỏ gọn dễ phát tán, chỉ trong thời gian ngắn, vi nhựa đã có mặt khắp nơi gây ra tình trạng ô nhiễm vi nhựa ngày càn lan rộng, ảnh hưởng tới môi trường sống.
Kết quả nghiên cứu của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cũng cho thấy, các loài sinh vật biển và chim biển thường ăn nhựa và vi nhựa do nhầm lẫn đó là thức ăn, lâu dần khi dạ dày không có chỗ chứa, chúng sẽ chết do trong bụng chứa đầy nhựa và vi nhựa. Một cách khác, các loài sinh vật phù du sẽ ăn vi nhựa, cá bé lại ăn sinh vật phù du và bị nhiễm nhựa, cá lớn lại ăn cá bé và bị nhiễm vi nhựa, lâu dần cũng sẽ chết. Vì thế, số lượng sinh vật biển giảm đi đáng kể, rõ rệt . Bên cạnh đó, con người ăn các loài sinh vật biển sẽ tích lũy vi nhựa trong cơ thể.
Còn theo ông Trương Trần Nguyễn Sang, Trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh, các sợi hoặc mảnh vi nhựa dẻo trong các bụi khí quyển ở TP Hồ Chí Minh được tìm thấy trong tất cả các mẫu. Dòng lắng đọng của vi nhựa thay đổi theo các xu hướng khác nhau tại mỗi địa điểm lấy mẫu trong một năm có thể liên quan đến các yếu tố như mật độ dân số, không gian chiếm dụng hoặc điều kiện thời tiết như lượng mưa và hướng gió. Nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm khí quyển ở TP.HCM chủ yếu là do các yếu tố như: Áp lực dân số cao 8,5 triệu (GSO, 2018) với mật độ 4.171 người/km2; công nghiệp dệt may tại địa phương; các hoạt động của con người như bãi chôn lấp và công trường xây dựng; thói quen của người dân địa phương và sự khác biệt về mức độ quản lý chất thải... Vì vậy, vi nhựa trong không khí nên coi là chất ô nhiễm mới do vận chuyển xa và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người.
Lý Thanh Hương