Hệ sinh thái vùng biển Việt Nam trước sức ép biến đổi khí hậu
Hệ sinh thái (HST) biển Việt Nam khá đa dạng và có vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, đem lại nhiều giá trị kinh tế. Tuy nhiên, trước tác động của biến đổi khí hậu các HST biển đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Vùng biển nước ta có khoảng 20 HST điển hình, phân bố trên 1 triệu km2 diện tích ở Biển Đông, với 155.000 ha rừng ngập mặn, khoảng 1.300 km2 rạn san hô, gần 500 km2 đầm phá và khoảng 16.000 ha cỏ biển, nhiều khu vực bãi triều và cửa sông, với chừng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có xấp xỉ 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước...
Năm 2009, PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi cho biết “Ước tính mỗi năm khoản lợi nhuận thu được từ các HST biển và ven biển của Việt Nam từ 60 - 80 triệu USD, tức là khoảng 56 - 100 USD/năm/gia đình cư dân sống ở các huyện ven biển”.
Theo đánh giá của Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển cộng đồng, tổng giá trị các sản phẩm dịch vụ của HST rạn san hô của nước ta ước tính vào khoảng 100 triệu USD/năm, trong đó 1 km2 rạn san hô có thể cung cấp lượng hải sản đánh bắt lên tới 10.000 USD.
Tại đồng bằng sông Cửu Long, 1 km2 rừng ngập mặn có thể cung cấp lượng đánh bắt 450 kg hải sản. Mỗi năm, HST cỏ biển cung cấp lượng thủy sản và các dịch vụ có giá trị trên 20 triệu USD và giá trị mà đầm phá mang lại ước tính lên đến trên 2.000 USD/ha.
Rừng ngập mặn với diện tích 209.741 ha (năm 2006) có thể làm giảm xói mòn bờ biển và bảo vệ đường bờ khỏi bão và triều cường. Mỗi m2 cỏ biển có thể tạo ra 10 lít O2 hòa tan, góp phần cân bằng O2 và CO2 trong nước, làm giảm hiệu ứng nhà kính khi hấp thụ CO2 vào nước.
Nhìn chung, các HST biển ở nước ta có nhiều tiềm năng về kinh tế, văn hóa du lịch và môi trường. Tuy nhiên, hiện nay các HST này đang bị suy giảm nhanh chóng do sự khai thác quá mức của con người, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu (BĐKH).
Sức ép từ biến đổi khí hậu
Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH, đặc biệt là những vùng đất ngập nước ven biển, điển hình là khu vực rừng ngập mặn ở Cà Mau, TP.HCM, Vũng Tàu và Nam Định.
BĐKH làm cho đa dạng sinh học vùng bờ cùng với nguồn lợi thủy hải sản giảm sút. Các HST vùng bờ bị suy thoái và thu hẹp diện tích. Các quần thể động thực vật có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển, thay đổi sự tương tác giữa sông - biển ở vùng cửa sông ven bờ và do mất tới 60% các nơi cư trú tự nhiên.
Những năm gần đây, sự suy giảm nhanh chóng của HST san hô, thảm cỏ biển, ngoài nguyên nhân chủ yếu do tác động trực tiếp của con người, BĐKH cũng là yếu tố chính đang đe dọa các HST quan trọng này. Hiện tượng El-Nino có chiều hướng gia tăng cả về tần suất và cường độ đã làm nhiệt độ nước biển tăng cao, cùng bức xạ mặt trời vượt khả năng chịu đựng của san hô khiến chúng trở thành màu trắng, mà khoa học gọi là hiện tượng tẩy trắng san hô.
Theo các nhà khoa học, san hô rất khó phục hồi sau khi bị tẩy trắng bởi rất nhiều lý do, trong đó áp lực từ nhiệt độ nước biển tăng cao cộng với sự gia tăng độ đục của các dòng sông mang phù sa ra biển do xói lở đường bờ làm suy giảm ánh sáng trong nước tới rạn san hô, dẫn đến việc san hô sẽ bị suy thoái mạnh hơn và chức năng bảo vệ chống xói mòn của san hô cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Điều đáng lo ngại là hiện tượng El-Nino vẫn sẽ tiếp tục xảy ra ở nước ta.
Cần chiến lược bền vững
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp quyết liệt, nhằm bảo tồn, phát triển đa dạng sinh học biển. Đến năm 2018, cả nước đã có 10 khu bảo tồn biển được thành lập và đi vào hoạt động, góp phần thiết thực bảo vệ các hệ sinh thái biển đặc thù, các loài sinh vật biển quý, hiếm, phát triển kinh tế biển gắn với đấu tranh bảo vệ chủ quyền, an ninh trong vùng biển đặc quyền kinh tế, phối hợp giải quyết tốt các vấn đề môi trường xuyên biên giới trong khu vực Biển Đông...
Tuy nhiên, hệ sinh thái biển vẫn chưa được đánh giá và quan tâm đúng mức. Không chỉ vậy, các chính sách phát triển bao gồm cơ cấu ngành nghề, phương thức khai thác và tổ chức quy hoạch quản lý vùng ven biển, vùng biển… cũng thiếu khoa học và chưa hợp lý – điều này tác động không nhỏ tới hệ sinh thái biển nói chung và tài nguyên sinh vật biển nói riêng, hệ quả làm cạn kiệt các hệ sinh thái, các nguồn lợi ven bờ do mất nơi cư trú, khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.
Đơn cử như ở ven biển miền Trung trong những năm 1960 có khoảng 20.000ha rừng ngập mặn nhưng do chính sách phá rừng để nuôi tôm nên nhiều nơi rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, có nơi gần như biến mất trên bản đồ như bán đảo Cam Ranh (Khánh Hòa); đầm Thị Nại (Bình Định)…
Đáng chú ý là ngay các văn bản luật pháp và các cơ chế chính sách cũng chưa phát huy đầy đủ hiệu quả trong vấn đề quản lý, giám sát và thực thi các văn bản pháp quy liên quan đến khai thác, sử dụng và bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái, các nguồn lợi sinh vật biển.
Theo các nhà khoa học, muốn bảo tồn hệ sinh thái biển, trước tiên cần chú ý tới cơ chế, chính sách bảo vệ nguồn lợi biển cũng như chức năng hệ sinh thái biển. Bên cạnh đó, cần quan tâm đặc biệt tới vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế vùng biển với những nội dung quan trọng như: Suy thoái môi trường do khai thác rừng không hợp lý; suy thoái môi trường do khai thác tài nguyên ven bờ; ô nhiễm, suy thoái môi trường do công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; ô nhiễm môi trường do chất thải sinh hoạt; ô nhiễm môi trường do hoạt động giao thông vận tải, du lịch; ô nhiễm, suy thoái môi trường do sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón; ô nhiễm, suy thoái môi trường do khai thác, chế biến khoáng sản.
Ngoài ra, trong quá trình quy hoạch, khai thác vùng biển, cần đặc biệt lưu ý đến những sự cố/xung đột môi trường, các tác động có khả năng xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống xã hội, kinh tế và môi trường như: sự cố tràn dầu do tai nạn trên biển, do hỏng thiết bị, thời tiết…; các hoạt động lấn biển, khai hoang đất dẫn đến xung đột, mất các hệ sinh thái tự nhiên bảo vệ bờ biển và bãi sinh sản, nguồn giống các loài thủy hải sản gây ra các mâu thuẫn lợi ích giữa hoạt động của các ngành nghề…; hoạt động phát triển các khu kinh tế, trung tâm nhiệt điện… làm phá hủy diện tích rừng ngập mặn và ô nhiễm môi trường.
Bảo My