Đề nghị huy động tối đa nguồn lực từ doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân tham gia làm điện hạt nhân
Đại biểu Dương Khắc Mai, Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông đề nghị cần có cơ chế huy động tối đa nguồn lực từ doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân tham gia làm dự án điện hạt nhân.
Vào ngày 17 tháng 2, tại phiên thảo luận về dự thảo Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển điện hạt nhân Ninh Thuận, đại biểu Dương Khắc Mai từ Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông đã bày tỏ quan điểm. Ông cho rằng điện hạt nhân là một lĩnh vực công nghệ phức tạp và đặc thù, trong khi trình độ hiện tại của Việt Nam trong lĩnh vực này chỉ ở mức cơ bản. Điều này dẫn đến sự phụ thuộc nhiều vào các quốc gia nước ngoài, nơi đã phát triển năng lượng hạt nhân từ lâu và sở hữu công nghệ tiên tiến.

Đại biểu Mai đề nghị cần có cơ chế huy động tối đa nguồn lực từ cả doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân để tham gia vào dự án này. Ông gợi ý rằng có thể nghiên cứu và áp dụng các chính sách tương tự như việc phát triển dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Theo ông, cơ chế này sẽ giúp giảm bớt áp lực về vốn và nhân lực cho Nhà nước, đảm bảo tiến độ dự án, cũng như xây dựng một đội ngũ nhân lực có trình độ cao, làm chủ công nghệ và tự vận hành nhà máy trong thời gian sớm nhất.
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh từ Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho rằng hợp đồng “chìa khóa trao tay” là phương thức phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam. Bà dẫn chứng rằng Hàn Quốc đã sử dụng phương thức này cho nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của họ từ năm 1972-1978. Đến năm 1998, Hàn Quốc hoàn toàn làm chủ công nghệ và xuất khẩu nhà máy điện hạt nhân “Made in Korea” cho Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất vào năm 2009. Nhiều quốc gia khác như Bangladesh và Ba Lan cũng chọn phương thức này. Quá trình vận hành, bảo dưỡng và cung cấp nhiên liệu cũng do nhà thầu chính đảm nhận một thời gian sau khi nhà máy đi vào hoạt động.
Về việc áp dụng hình thức chỉ định thầu rút gọn với đối tác đủ năng lực vận hành và bảo dưỡng trong 5 năm từ ngày dự án được nghiệm thu và đưa vào sử dụng, đại biểu Mai cho rằng đây là giải pháp phù hợp để đảm bảo sự liên tục trong bảo dưỡng nhà máy sau khi hết hợp đồng “chìa khóa trao tay”. Tuy nhiên, về lâu dài, cần có kế hoạch chuẩn bị năng lực và kỹ thuật thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, dịch vụ kỹ thuật và chương trình đào tạo với các đối tác cung cấp công nghệ nhà máy điện hạt nhân cho Việt Nam.
Về vấn đề an toàn và an ninh hạt nhân, đại biểu Mai nhấn mạnh rằng các nhà cung cấp đều phải tuân thủ các nguyên tắc của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Do đó, dù lựa chọn công nghệ của đối tác nào, các tiêu chuẩn và quy chuẩn sử dụng trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân cũng phải phù hợp với tiêu chuẩn của IAEA. Đối với các thiết kế liên quan đến đặc điểm địa hình và khí hậu theo điều kiện của Việt Nam, đại biểu đề nghị cần được phê duyệt theo tiêu chuẩn và quy chuẩn an toàn của Việt Nam, và có thể thẩm định theo quy trình rút gọn.
Tham gia vào thảo luận về huy động nguồn lực, đại biểu Nguyễn Quang Huân từ Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương nhận xét rằng các quy định trong dự thảo Nghị quyết cho phép chủ đầu tư thực hiện nhanh chóng các bước đầu của dự án, nhưng sẽ gặp khó khăn khi cần thay đổi vốn và phương án công nghệ sau này. Ông nhấn mạnh rằng điện hạt nhân là một dự án lớn, và trong quá trình thực hiện, có thể phát sinh nhiều vấn đề không lường trước. Trong trường hợp vốn chủ sở hữu không đáp ứng đủ, cần tăng vốn mà cơ quan chủ sở hữu vốn Nhà nước không tham gia giám sát, chủ đầu tư có đủ thẩm quyền điều chỉnh hay cần phải xin Quốc hội? Đại biểu đề nghị để cơ quan chủ sở hữu Nhà nước giám sát quá trình này để họ có thể ra quyết định nhanh chóng hơn.

Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Quốc Nam từ Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Thuận cho biết Chính phủ đã giao cho tỉnh Ninh Thuận phải hoàn thành giải phóng mặt bằng, di dời và tái định cư cho người dân trong vùng dự án trong năm 2025, tức là chỉ còn khoảng 10 tháng để thực hiện. Ninh Thuận đã tiến hành nhiều công việc với tinh thần làm việc quyết liệt, không chờ đợi, nhằm đảm bảo đến chậm nhất ngày 31/12/2031 sẽ vận hành nhà máy số 1.
Ngoài các chính sách đặc thù được Chính phủ đề xuất, tỉnh Ninh Thuận cũng đề nghị bổ sung thêm 5 chính sách, cơ chế, đặc biệt là về giải phóng mặt bằng, di dời, bồi thường và hỗ trợ người dân vùng dự án. Giải phóng mặt bằng thường là khâu khó khăn và mất nhiều thời gian, nếu thực hiện theo đúng quy định của luật thì chắc chắn không thể hoàn thành trong vòng một năm.
Giải trình sau đó, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho hay đây là dự án có công nghệ phức tạp, chỉ một số ít quốc gia sở hữu và nhu cầu vốn đầu tư rất lớn. Để đảm bảo mục tiêu hoàn thành dự án trong giai đoạn 2030-2031, cần có các cơ chế và chính sách đặc thù, đủ mạnh để đẩy nhanh tiến độ và rút ngắn thời gian thực hiện.

Tuy nhiên, các cơ chế và chính sách này chưa được quy định hoặc khác với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, nên cần thiết phải có sự thông qua của Quốc hội, ban hành Nghị quyết để tạo cơ sở pháp lý cho các Bộ, ngành Trung ương, tỉnh Ninh Thuận và các chủ đầu tư triển khai thực hiện.
Bộ trưởng Diên nói tiếp thu tối đa ý kiến của các đại biểu, cơ quan soạn thảo sẽ điều chỉnh dự thảo Nghị quyết theo hướng chỉ nêu chung "chủ đầu tư", bổ sung đối tượng áp dụng "tỉnh Ninh Thuận" và "đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án".
H.A