Công nghiệp nông nghiệp Quảng Trị: Hướng tới tăng trưởng bền vững
Cơ cấu nông - lâm - thủy sản hiện tại của Quảng Trị vẫn chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với lợi thế từ cây công nghiệp dài ngày, dược liệu dưới tán rừng và vùng biển - đầm phá giàu tiềm năng.

Để nâng cao thu nhập, phục vụ du lịch và thúc đẩy tăng trưởng bền vững, tỉnh Quảng Trị cần phát triển “công nghiệp nông nghiệp” bằng cách quy hoạch vùng nguyên liệu gắn chế biến sâu, hỗ trợ HTX công nghệ cao, đầu tư kho lạnh - logistics, và xây dựng thương hiệu OCOP gắn với du lịch. Đồng thời, khuyến khích mô hình nông nghiệp tuần hoàn và liên kết doanh nghiệp - nông dân - trung tâm đổi mới sáng tạo để nâng cao giá trị sản phẩm và năng lực cạnh tranh.
Bài viết của GS.TS, LS, Doanh nhân Phạm Hồng Điệp - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Shinec; Ủy viên Hội đồng Biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường sẽ làm rõ hơn về vấn đề này.
Các bài viết trước:
Du lịch Quảng Trị và tiềm năng tăng trưởng kinh tế tổng hợp
Quảng Trị: Hành trình từ mảnh đất bom đạn trở thành biểu tượng hòa bình của thế giới
Cảng Mỹ Thủy – “cửa ngõ đại dương” mới của miền Trung
I. Hiện trạng cơ cấu nông - lâm - thủy sản tỉnh Quảng Trị mới
1.1. Điều kiện tự nhiên bất lợi:
Quảng Trị là địa phương có điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, gây nhiều bất lợi cho phát triển nông - lâm - thủy sản. Địa hình chủ yếu là đồi núi dốc, đất cát ven biển và đất bazan phân bố ở vùng gò đồi, gây khó khăn trong việc quy hoạch vùng canh tác tập trung.
Khí hậu mang tính chất cực đoan, với mùa hè thường xuyên xuất hiện gió Lào khô nóng, trong khi mùa đông lại mưa nhiều, dễ dẫn đến lũ lụt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, tỉnh còn thường xuyên đối mặt với các hiện tượng thời tiết bất lợi như hạn hán, lũ quét, xâm nhập mặn, cát bay - cát nhảy, khiến việc canh tác đại trà trở nên rất khó khăn và kém hiệu quả.
1.2. Cơ cấu nông - lâm - thủy sản hiện tại (ước tính đến 2024):
Tính đến năm 2024, cơ cấu ngành nông - lâm - thủy sản của tỉnh Quảng Trị mới vẫn còn mang tính chất manh mún, giá trị gia tăng thấp và chủ yếu phục vụ tự cung tự cấp. Trong lĩnh vực trồng trọt, tỉnh có khoảng 55.000 ha đất canh tác, nhưng phần lớn diện tích trồng lúa cho hiệu quả kinh tế kém, cùng với một số cây trồng khác như sắn, hồ tiêu và cao su. Chăn nuôi duy trì ở quy mô khoảng 200.000 đầu gia súc, chủ yếu là trâu, bò, lợn và gia cầm do hộ gia đình chăn nuôi nhỏ lẻ, chiếm khoảng 2-3% GRDP.

Lâm nghiệp hiện có khoảng 260.000 ha rừng với các loại cây chủ yếu là keo, thông và một số cây bản địa, đóng góp khoảng 3-4% GRDP. Trong khi đó, ngành thủy sản khai thác và nuôi trồng trên diện tích 20.000 ha mặt nước và vùng ven biển, tập trung vào nuôi tôm, cá, hàu và nuôi lồng, chiếm khoảng 2% GRDP. Tổng cộng, toàn ngành nông - lâm - thủy sản chỉ đóng góp khoảng 12-14% GRDP tỉnh, nhưng hầu hết vẫn ở mức giá trị thấp, chưa hình thành được chuỗi giá trị bền vững hay có sức cạnh tranh trên thị trường.
II. Những khó khăn lớn
Tỉnh Quảng Trị hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn lớn trong quá trình phát triển ngành nông – lâm – thủy sản theo hướng hàng hóa, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trước hết, về tài chính, nguồn vốn vay không thế chấp trị giá 300 triệu đồng/hộ hiện nay tuy mang tính hỗ trợ khởi đầu, nhưng vẫn còn rất hạn chế nếu không được tích hợp với các yếu tố khác như liên kết thị trường tiêu thụ ổn định, ứng dụng công nghệ phù hợp và đầu tư hạ tầng đồng bộ như kho lạnh, hệ thống tưới tiết kiệm, điện mặt trời cho sản xuất.
Một trong những trở ngại then chốt khác là năng lực của người dân còn hạn chế cả về kiến thức sản xuất quy mô lớn, tiếp cận kỹ thuật nông nghiệp công nghệ cao lẫn khả năng tài chính để đối ứng, mở rộng quy mô sản xuất. Trong khi đó, mô hình liên kết giữa “bốn nhà” – gồm nông dân, doanh nghiệp, nhà nước và nhà khoa học – gần như chưa được xây dựng một cách thực chất, khiến chuỗi giá trị ngành bị đứt gãy ở nhiều khâu quan trọng, đặc biệt là chế biến và tiêu thụ sau thu hoạch.
Ngoài ra, Quảng Trị là một trong những tỉnh chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Các hiện tượng như xâm nhập mặn ngày càng sâu vào đất liền, mưa lớn cực đoan, sạt lở đất và nguy cơ sa mạc hóa đang gia tăng rõ rệt, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng canh tác, an toàn mùa vụ và tính ổn định của nguồn sinh kế nông nghiệp. Nếu không có những chính sách can thiệp mạnh mẽ và đầu tư đồng bộ, ngành nông – lâm – thủy sản của tỉnh sẽ tiếp tục đối mặt với vòng luẩn quẩn của năng suất thấp – giá trị thấp – thu nhập thấp và tính bền vững yếu.
III.Chiến lược phát triển “công nghiệp nông nghiệp” cho quảng trị
Mục tiêu: Mục tiêu chiến lược của Quảng Trị trong phát triển “công nghiệp nông nghiệp” là biến vùng đất còn nhiều bất lợi thành vùng nông nghiệp công nghệ cao, với định hướng bản địa hóa và chuyên biệt theo lợi thế từng tiểu vùng. Tỉnh hướng tới việc sản xuất thực phẩm sạch, an toàn và phát triển các dòng đặc sản địa phương có giá trị gia tăng cao, phục vụ cả nhu cầu du lịch trải nghiệm lẫn xuất khẩu. Đến năm 2045, Quảng Trị đặt mục tiêu trở thành một trung tâm cung ứng nông sản đặc trưng gắn với du lịch xanh và chuỗi giá trị toàn cầu.
3.1. Phân vùng chuyên canh nông nghiệp theo điều kiện địa lý
Chiến lược phát triển “công nghiệp nông nghiệp” tại Quảng Trị sẽ dựa trên việc phân vùng chuyên canh nông nghiệp theo điều kiện địa lý, nhằm khai thác tối ưu tiềm năng đất đai và khí hậu của từng khu vực. Mục tiêu là tạo ra các vùng sản xuất chuyên biệt, có năng suất cao, chất lượng ổn định và phù hợp với biến đổi khí hậu.
Tại vùng ven biển với nền cát trắng, tỉnh định hướng phát triển các loại cây trồng chịu hạn như nho cát, rong biển, dược liệu bản địa, kết hợp với chăn nuôi dê, cừu và gà thả vườn - những mô hình phù hợp với điều kiện khô cằn, ít nước. Đây cũng là vùng có thể phát triển mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch trải nghiệm.
Khu vực gò đồi và đất bazan sẽ tập trung tái canh cây cao su theo hướng bền vững, phục hồi năng suất; đồng thời phát triển hồ tiêu và mở rộng các loại cây ăn quả bản địa như bơ, mít, sầu riêng. Những sản phẩm này có tiềm năng xây dựng thương hiệu nông sản đặc trưng của tỉnh và phục vụ thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.
Ở vùng rừng và miền núi, Quảng Trị sẽ thúc đẩy mô hình kinh tế rừng tổng hợp, kết hợp giữa trồng rừng gỗ lớn, phát triển cây dược liệu dưới tán rừng, bảo vệ rừng tự nhiên và khai thác du lịch sinh thái cộng đồng. Đây là hướng đi vừa giúp tăng sinh kế, vừa bảo vệ tài nguyên rừng và tạo ra tín chỉ carbon sinh học.
Cuối cùng, vùng đầm phá và ven biển sẽ được quy hoạch thành trung tâm nuôi trồng thủy sản công nghệ cao. Tỉnh sẽ ưu tiên nuôi tôm sạch, cá lồng biển, hàu và các loài hải sản có giá trị kinh tế cao theo mô hình tuần hoàn - an toàn sinh học - truy xuất nguồn gốc. Qua đó, Quảng Trị hướng đến một nền nông nghiệp công nghệ cao, gắn với phát triển du lịch, nâng cao giá trị gia tăng toàn chuỗi và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
3.2. Xây dựng vùng nông nghiệp chuyên biệt phục vụ du lịch
Để phát triển nông nghiệp gắn với du lịch, Quảng Trị hướng tới xây dựng các vùng nông nghiệp chuyên biệt có giá trị đặc sản và bản địa hóa cao. Trọng tâm là hình thành “Vùng nguyên liệu nông sản đặc sản Quảng Trị” - nơi tập trung các sản phẩm tiêu biểu như tiêu hữu cơ, cà phê Khe Sanh, mật ong rừng tự nhiên, gạo đỏ bản địa, và rượu men lá truyền thống của người Pa Cô.
Các sản phẩm này không chỉ có tiềm năng xuất khẩu mà còn là tài nguyên văn hóa - ẩm thực hấp dẫn để phát triển du lịch trải nghiệm. Tỉnh sẽ quy hoạch và hỗ trợ mô hình nông trại kết hợp du lịch (farmstay) tại các địa phương như Hướng Hóa, Vĩnh Linh và Cam Lộ - những nơi có khí hậu mát mẻ, cảnh quan sinh thái đẹp và giàu truyền thống văn hóa.
Thông qua đó, người dân không chỉ gia tăng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp mà còn có cơ hội tham gia vào chuỗi dịch vụ du lịch, từ đó từng bước hình thành hệ sinh thái “công nghiệp nông nghiệp” bền vững, phục vụ cả tiêu dùng trong nước và khách quốc tế.
3.3. Chính sách tín dụng đặc thù
Để thúc đẩy chuyển đổi sang nền nông nghiệp công nghệ cao, Quảng Trị cần triển khai gói tín dụng đặc thù dành cho hộ gia đình và tổ hợp tác sản xuất chuyên nghiệp. Theo đó, mức vay nên được nâng từ 300 triệu đồng hiện tại lên tối đa 3 tỷ đồng mỗi hộ hoặc tổ hợp, với điều kiện không yêu cầu thế chấp nếu có hợp đồng liên kết đầu ra rõ ràng với doanh nghiệp.
Song song, các mô hình hợp tác xã sản xuất chuyên canh ứng dụng số hóa - từ truy xuất nguồn gốc đến quản trị chuỗi cung ứng - sẽ được ưu tiên tiếp cận các khoản vay ưu đãi, tạo điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp theo hướng bền vững.
3.4. Ưu tiên phát triển lâm nghiệp sinh thái - kinh tế
Để thúc đẩy phát triển kinh tế rừng bền vững, Quảng Trị cần áp dụng mô hình khoanh nuôi tái sinh rừng gỗ lớn, kết hợp trồng xen dược liệu bản địa có giá trị cao như sa nhân, hà thủ ô, đinh lăng. Đây là hướng đi phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng - khí hậu của vùng trung du và miền núi, vừa góp phần tái tạo tài nguyên rừng tự nhiên, vừa tăng thu nhập cho người dân thông qua sản xuất nông - lâm kết hợp. Mô hình này cũng giúp ổn định đất rừng, hạn chế xói mòn và giữ nước cho vùng hạ lưu.
Song song, tỉnh cần xây dựng cơ chế giao khoán rừng rõ ràng, minh bạch cho các doanh nghiệp, hợp tác xã và cộng đồng dân cư có đủ năng lực quản lý, chăm sóc và khai thác bền vững. Việc triển khai các dự án REDD+ để bán tín chỉ carbon sẽ tạo thêm một dòng thu mới từ tài nguyên rừng, đặc biệt nếu Quảng Trị trở thành tỉnh đi đầu trong việc chứng nhận, đo đếm và giao dịch carbon sinh học. Khi nguồn thu từ rừng được chia sẻ hợp lý và minh bạch, người dân sẽ có động lực gìn giữ rừng lâu dài, thay vì phá rừng làm rẫy như trước kia.
3.5. Phát triển thủy sản sạch - sinh thái
Để tái cơ cấu ngành thủy sản, Quảng Trị cần đẩy mạnh chuyển đổi từ mô hình đánh bắt ven bờ kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thủy sản công nghệ cao và thân thiện môi trường. Trong đó, ưu tiên đầu tư các khu nuôi tôm áp dụng công nghệ tiên tiến của Israel, Nhật Bản với hệ thống kiểm soát môi trường nghiêm ngặt, đảm bảo an toàn sinh học và dư lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, tỉnh cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu thủy sản, tạo ra sản phẩm đặc trưng địa phương đạt chuẩn OCOP, góp phần nâng giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Song hành với tái cơ cấu sản xuất, Quảng Trị nên thành lập Trung tâm Nghiên cứu & Khởi nghiệp Nông nghiệp - nơi đào tạo lớp nông dân thế hệ mới có kỹ năng ứng dụng công nghệ số, kỹ thuật sinh học trong sản xuất, và biết cách kết nối thị trường tiêu thụ. Trung tâm này cũng sẽ là bệ phóng cho các dự án khởi nghiệp nông nghiệp trẻ, thông qua hỗ trợ về đất đai, vốn mồi và tư vấn kỹ thuật - góp phần hình thành lực lượng sản xuất hiện đại, bản địa và bền vững cho nông nghiệp tỉnh trong tương lai.
V. Kết luận
Đến năm 2045, tỉnh Quảng Trị đặt mục tiêu chiến lược đưa ngành nông - lâm - thủy sản phát triển đột phá, tăng ít nhất gấp ba lần giá trị đóng góp vào GRDP, từ chỗ là ngành thuần nông quy mô nhỏ trở thành một trụ cột kinh tế hiện đại. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp sẽ đảm nhận vai trò cung cấp tối thiểu 50% thực phẩm sạch, hữu cơ cho hệ sinh thái du lịch tâm linh, nghỉ dưỡng và cộng đồng dân cư đô thị hóa nhanh chóng tại tỉnh.
Thông qua việc đẩy mạnh mô hình nông nghiệp bản địa - chuyên biệt - công nghệ cao, kết hợp phát triển kinh tế rừng tuần hoàn và thủy sản sạch, Quảng Trị hướng đến hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp gắn với dịch vụ, xuất khẩu và đổi mới sáng tạo. Đây không chỉ là giải pháp nâng cao thu nhập cho người dân vùng nông thôn, mà còn là nền tảng để xây dựng một Quảng Trị xanh - bền vững - thịnh vượng, vươn lên mạnh mẽ từ vùng đất khó, thích ứng với biến đổi khí hậu và dẫn dắt mô hình phát triển nông nghiệp hiện đại tại miền Trung.
GS.TS, LS, Doanh nhân Phạm Hồng Điệp
Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Shinec
Ủy viên Hội đồng Biên tập Tạp chí Kinh tế Môi trường