An ninh môi trường là gì? Thực trạng bảo đảm an ninh môi trường tại Việt Nam hiện nay
Thế giới ngày nay đang đứng trước nhiều vấn đề về môi trường mang tính quy mô toàn cầu. Những tổn thất về con người, vật chất do môi trường gây ra vượt quá những tổn thất về người và của do các biến động xã hội, bệnh tật và chiến tranh.
Môi trường đóng vai trò quan trọng đối với sự sống của con người cũng như tất cả các sinh vật khác trên Trái Đất. Không chỉ cung cấp không gian sống lý tưởng, môi trường còn mang đến cho con người những tài nguyên để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,…
Tuy nhiên môi trường hiện nay đang có xu hướng ô nhiễm không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả trên toàn thế giới, gây ra những hậu quả khó lường. Trước tình trạng nhiễm môi trường đã và đang là một vấn đề nan giải toàn cầu. Thậm chí vấn đề này không chỉ là một mối quan tâm bình thường. Chúng đang được báo động. Trên thế giới, theo thống kê số lượng người mắc các bệnh liên quan đến các vấn đề ô nhiễm môi trường rất nhiều và không có dấu hiệu dừng. Đặc biệt ở một số tỉnh thành, thành phố lớn thì chỉ cần đi ra đường một lúc thì bạn sẽ thấy tình trạng ô nhiễm môi trường rõ như thế nào, thậm chí còn thể hiện, bám dính trên người bạn.
An ninh môi trường là gì?
Môi trường gồm môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Hai loại môi trường này có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người và tác động đến đời sống, kinh tế, xã hội cũng như sự tồn tại, phát triển của con người và giới tự nhiên.
An ninh môi trường (ANMT) là trạng thái mà hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng nhằm bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật. An ninh môi trường mất đi khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng… dẫn đếnđiều kiện sống và phát triển của con người không được bảo đảm. Bảo đảm an ninh môi trường chính là bảo vệ môi trường sống của con người.
Xét trong mối tương quan giữa an ninh môi trường, xã hội và phát triển bền vững về xã hội thì bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về xã hội được hiểu là trong quá trình phát triển, bên cạnh khai thác tài nguyên thiên thiên phục vụ tăng trưởng kinh tế, con người phải chú trọng bảo vệ môi trường, từ đó môi trường sinh thái, sức khỏe và sinh kế của người dân, trật tự an toàn xã hội được bảo vệ, xã hội phát triển bền vững.
Theo đó, để bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về xã hội cần thực hiện các nội dung sau:
Một là, các hoạt động kinh tế phải gắn với việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, tài nguyên đất, nước. Đất đai, nguồn nước vừa là tài nguyên vừa là môi trường để con người thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là hai yếu tố quan trọng nhất và ngày càng khan hiếm. Do đó, để bảo đảm an ninh môi trường, các hoạt động kinh tế phải gắn với sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên (đất, nước), nhằm giảm đến mức tối thiểu nguyên liệu đầu vào, lượng phát thải, khí thải và độ ô nhiễm, đồng thời bảo vệ môi trường, bảo đảm tăng trưởng hiệu quả và bền vững, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đời sống con người.
Hai là, các hoạt động kinh tế phải gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học. Tài nguyên thiên nhiên và sự đa dạng sinh học là nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất và là điều kiện cơ bản để xã hội phát triển. Các hoạt động kinh tế đi kèm với phá rừng, khai thác cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, gây ô nhiễm hoặc hủy hoại môi trường; sử dụng các loại hóa chất, như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, các chất kích thích sinh trưởng làm suy thoái tài nguyên đất, giảm đa dạng sinh học. Những hoạt động này về lâu dài sẽ tác động tiêu cực tới sự phát triển bền vững của xã hội loài người. Do đó, các hoạt động kinh tế phải gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ sự đa dạng sinh học, nhằm bảo đảm an ninh môi trường trong quá trình phát triển bền vững về xã hội.
Ba là, các hoạt động kinh tế gắn với ứng phó biến đổi khí hậu
Hơn 90% nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu là do hoạt động của con người làm gia tăng phát thải khí nhà kính gây ra. Biến đổi khí hậu với những biểu hiện như: nước biển dâng, thời tiết cực đoan, hạn hán khốc liệt... đã ảnh hưởng đến sinh kế của con người cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống. Trong bối cảnh đó, phát triển kinh tế, một mặt, phải hướng đến các phương án canh tác thân thiện với môi trường, nhằm giảm phát thải khí nhà kính, qua đó, làm chậm tốc độ biến đổi khí hậu.
Thực trạng bảo đảm an ninh môi trường tại Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, ANMT đang bị đe dọa nghiêm trọng, Tình hình vi phạm và tội phạm về môi trường đang diễn ra phổ biến và diễn biến hết sức phức tạp. Cộng với thiên tai, bệnh dịch, vi phạm và tội phạm môi trường là nguyên nhân cơ bản gây nên nguy cơ mất ANMT, đe dọa trực tiếp đến sự phát triển bền vững của nước ta hiện nay. Việt Nam với dân số trên 80 triệu người (đứng hàng thứ 14 trên thế giới), Việt Nam đang đứng trước những thách thức về tài nguyên thiên nhiên và môi trường, các hệ sinh thái đang suy thoái ở mức độ nghiêm trọng. Tình hình gia tăng dân số, thâm canh nông nghiệp, nhất là quá trình đô thị hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đang ảnh hưởng lớn đến an ninh môi trường.
Ở Việt Nam, môi trường sinh thái đang ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng bởi những nguyên nhân chủ yếu do các hoạt động tiêu cực của con người và biến đổi khí hậu gây ra. Sự phát triển của kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã mở ra nhiều nhà máy, xí nghiệp, công trường. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra một cách mạnh mẽ đã và đang làm thay đổi đáng kể điều kiện sống của người dân.
Tuy nhiên, cácngành bước đầu sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên
Trong ngành nông nghiệp; Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, như: nhân giống mới, thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã làm tăng năng suất, cải thiện hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Cụ thể, giai đoạn 2011 - 2021, giá trị sản phẩm/ha đất nông nghiệp tăng qua các năm, trong đó, đất trồng trọt tăng từ 72,2 triệu đồng/ha (năm 2011) lên 102,8 triệu đồng/ha (năm 2020), bình quân mỗi năm tăng 3,06 triệu đồng; mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ 135,2 triệu đồng/ha (năm 2011) lên 237,8 triệu đồng/ha (năm 2020), bình quân mỗi năm tăng 10,26 triệu đồng/ha.
Thực hiện xây dựng nông thôn mới và cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, hệ thống thủy nông được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới, tiêu. Diện tích đất gieo trồng được tưới, tiêu chủ động tăng qua các năm, trong đó, diện tích trồng lúa được tưới, tiêu chủ động chiếm tỷ trọng cao nhất.
Được biết, vào vụ Đông Xuân năm 2020, cả nước có 85,72% diện tích lúa được cấp nước chủ động, 83,35% diện tích được tiêu nước chủ động, 30,20% diện tích ngăn mặn chủ động; có 39,68% diện tích cây gieo trồng hằng năm khác được cấp nước chủ động, 36,69% diện tích cây gieo trồng hằng năm khác được tiêu nước chủ động; 9,5% diện tích được ngăn mặn chủ động.
Ngoài ra, có 49,86% tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm được cấp nước chủ động và 42,98% diện tích được tiêu nước chủ động. Tỷ lệ diện tích đất gieo trồng được tưới tiêu chủ động tăng lên đã làm giảm lượng nước tưới ở giai đoạn không cần thiết, qua đó, làm giảm lượng khí mêtan và tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất.
Như vậy, tỷ lệ diện tích gieo trồng được tưới, tiêu chủ động tăng và giá trị sản phẩm/ha tăng qua các năm; ngành nông nghiệp đã khai thác được lợi thế tài nguyên đất đai, mặt nước để phát triển sản xuất.
Trong ngành công thương: Giai đoạn 2011-2020, đã triển khai đồng bộ các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Nhờ đó, hệ số đàn hồi điện/GDP đã giảm từ mức 2,0 (2001-2010) xuống mức 1,9 (2011-2015) và 1,43 (2016-2020). Việc đầu tư và cải tạo lưới điện giai đoạn 2011-2020 đã giúp tỷ lệ tổn thất truyền tải và phân phối điện giảm từ 10,15% (2010) xuống 6,5% (2020).
Bên cạnh đó, hiệu suất sử dụng năng lượng ở các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng cũng được chú trọng cải thiện. Nhờ đó, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng của Việt Nam đạt 5,65%, tương đương gần 11,3 triệu tấn dầu quy đổi. Trong đó, cường độ năng lượng các ngành sản xuất công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng đều giảm: ngành thép giảm 8,09%, xi măng giảm 6,33%, dệt giảm 7,32%. Hệ số đàn hồi điện/GDP giảm, hiệu suất sử dụng năng lượng giảm cho thấy, ngành công thương đã bước đầu sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên năng lượng, qua đó, giảm phát thải khí nhà kính.
Các ngành, lĩnh vực sản xuất đã quan tâm việc tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học
Ngành nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp đã chú trọng đến các phương thức canh tác vừa góp phần tăng nguồn hữu cơ cho đất, tái tạo và phục hồi tài nguyên đất, bảo vệ đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất. Cụ thể, ngành đã tập trung phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Đến năm 2019, cả nước có 237 nghìn ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tăng 213,6 nghìn ha so với năm 2016; cả nước có 46/63 tỉnh, thành tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ với 17.168 triệu nông dân và 97 doanh nghiệp; có gần 120 nghìn ha được chứng nhận VietGAP.
Việc áp dụng các hình thức canh tác này, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hữu cơ an toàn, đúng thời điểm, đúng liều lượng, đúng cách đã góp phần tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học, đồng thời tạo ra sản phẩm sạch, có năng suất cao, có giá trị xuất khẩu.
Ngành công thương: Cùng với việc áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất làm giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, ngành công thương còn chú trọng phát triển năng lượng tái tạo như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Đến năm 2020, cả nước có 113 dự án điện mặt trời, điện gió; tổng công suất đạt trên 5.700MW. Đến tháng 8/2020, tổng công suất các nguồn điện gió và điện mặt trời được phê duyệt bổ sung quy hoạch lên gần 23.000 MW, trong đó, riêng điện mặt trời khoảng 11.200 MW, điện gió 11.800 MW. Hiện nay, cả nước đã đưa vào vận hành 102 dự án điện mặt trời với tổng công suất là 6.314 MWp.
Các ngành đã quan tâm ứng phó biến đổi khí hậu
Trong nông nghiệp: Để thích ứng với biến đổi khí hậu, các địa phương hướng dẫn nông dân áp dụng nhiều biện pháp canh tác mới, như: chuyển đổi cơ cấu cây, con; chuyển đổi cơ cấu mùa vụ; đưa các giống cây, con thích ứng với biến đổi khí hậu vào sản xuất; hướng dẫn nông dân sản xuất kỹ thuật canh tác mới (VietGAP); "3 giảm, 3 tăng"; Chương trình quản lý dịch hại IPM; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng: đúng lúc, đúng cách, đúng thời gian, đúng liều lượng; mô hình trồng lúa giảm phát thải… Những biện pháp thích ứng trên đã giảm được thiệt hại do biến đổi khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm dịch bệnh, nâng cao chất lượng nông sản.
Khuyến khích xử lý các chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Việc xử lý các chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp (rơm rạ, bao bì chứa phân bón, chai lọ đựng chất bảo vệ thực vật, thức ăn dư thừa, phân gia súc, gia cầm, nước rửa chuồng trại...) đã góp phần giảm ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước; giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ sức khỏe người dân.
Ngành công thương: Đã thực hiện dán nhãn sinh thái/nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng và các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm sinh thái, thân thiện với môi trường.
Đến năm 2019, cả nước có 68,5% doanh nghiệp nhận thức được lợi ích của áp dụng sản xuất sạch hơn, tăng 20,5% so với năm 2010; 46,9% cơ sở sản xuất áp dụng sản xuất sạch hơn, tăng 39% so với 2010, trong đó, có 12% cơ sở đã tiết kiệm được trên 8% năng lượng, nguyên nhiên liệu/sản phẩm. Bộ Công Thương đã triển khai nhiệm vụ xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Những chính sách nêu trên đã góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,9%; giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6%, trung bình cả giai đoạn 2011 - 2020 là 5,95%/năm. Kết quả này đã đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Đáng chú ý, do tác động của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đều suy giảm, thậm chí tăng trưởng âm, thì Việt Nam vẫn đạt 2,87% năm 2020 và 2,56% năm 2021; được xếp vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao. Nhờ đó, đời sống của người dân được nâng lên. GNI bình quân đầu người năm 2016 là 6.211,1 USD và đạt 8.132,0 USD năm 2020 (bằng 130,93% năm 2016), bình quân mỗi năm tăng 6,97%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 73,4 tuổi năm 2016 lên 73,7 tuổi năm 2020. So với các nước Đông Nam Á, tuổi thọ bình quân Việt Nam đứng thứ 5, đứng thứ 26 châu Á và 87 trên thế giới.
Bên cạnh những bước tiến nêu trên, các hoạt động sản xuất kinh - doanh làm gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên và đa dạng sinh học
Trong ngành nông nghiệp, việc sử dụng phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật chưa được quản lý, kiểm soát, xả thải vào môi trường trong ngành nông nghiệp đã khiến cho môi trường nước ô nhiễm, môi trường đất bị suy thoái, độ phì kém, mất cân bằng dinh dưỡng làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng, giảm đa dạng sinh học.
Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học diễn ra ngày một nghiêm trọng. 21% các loài thú, 6,5% các loài chim, 19% các loài bò sát, 24% các loài lưỡng cư, 38% các loài cá và 2,5% các loài thực vật có mạch bị đe dọa tuyệt chủng. Trong đó, có 4 loài động vật đã tuyệt chủng, 5 loài tuyệt chủng trong thiên nhiên, 48 loài rất nguy cấp và 113 loài nguy cấp; 37 loài thực vật rất nguy cấp, 178 loài nguy cấp.
Trong gần 20 năm trở lại đây, các khu vực có rừng là sinh cảnh bị ảnh hưởng nhiều nhất với hơn 10.544 km2 diện tích đất rừng đã bị mất do chuyển đổi thành đất rừng trồng và đất trồng cây ăn quả. Khoảng 2,8 triệu ha rừng tự nhiên cũng bị mất do chuyển đổi sang phát triển các loài cây trồng thương mại.
Với ngành công thương, trình độ công nghệ, thiết bị lạc hậu còn chiếm tỷ lệ cao, hệ thống pháp luật và chính sách về bảo vệ môi trường chưa phù hợp với thực tiễn và thiếu ổn định nên vẫn còn nhiều “sự cố”, “điểm nóng” về môi trường. Giai đoạn 2010 - 2020, đã phát hiện 170.875 vụ vi phạm pháp luật về môi trường.
Theo Báo cáo tổng kết của Cục Cảnh sát môi trường năm 2020, cả nước hiện có hơn 370 khu công nghiệp, hàng trăm cụm công nghiệp nhỏ và khoảng hơn 2.000 làng nghề rải rác ở nhiều địa phương, tuy nhiên có đến 70% khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn; hơn 90% cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không xử lý nước thải; hơn 4.500 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; khoảng 55 – 70% số doanh nghiệp không chấp hành quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường; 98% doanh nghiệp có hành vi vi phạm về xả nước thải không đạt chuẩn môi trường; 100% doanh nghiệp thải khí không có thiết bị xử lý chất độc hại.
Một số các doanh nghiệp thậm chí nhập khẩu trái phép chất thải, máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu khiến cho Việt Nam có nguy cơ trở thành “bãi rác công nghiệp”. Tình trạng rác thải rắn, chất thải nguy hại ở các khu đô thị chưa được xử lý đúng cách; các vụ ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật, ngộ độc thực phẩm gia tăng… đã làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người dân. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong top 10 thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới.
Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 quốc gia khảo sát; về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe đứng vị trí 77; về chất lượng nước Việt Nam được xếp hạng 80. Tính theo Chỉ số Hiệu quả Môi trường (EPI), Việt Nam xếp thứ 79.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam nằm trong nhóm những quốc gia có tỷ lệ ung thư cao nhất do ô nhiễm không khí (đứng thứ 17). Trong 10 bệnh có tỷ lệ tử vong cao tại Việt Nam có 6 bệnh liên quan đến đường hô hấp có nguyên nhân từ ô nhiễm không khí và chất lượng không khí. Năm 2016, hơn 60.000 người tử vong do bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và viêm phổi ở Việt Nam đều có liên quan tới ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm nguồn nước cũng là một trong những tác nhân dẫn đến tử vong cao. Mỗi năm có đến 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém. Có khoảng 20.000 người mắc bệnh ung thư, nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước; 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng do thiếu nước sạch và vệ sinh kém.
Tình trạng thải bỏ chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật tại ruộng, ao hồ, kênh mương, sông suối là khá phổ biến. Năm 2020, vẫn còn 49,37% tổng số xã không có điểm thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật. Tỷ lệ chất thải nông nghiệp được thu gom, xử lý theo quy định thấp đã làm gia tăng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, phương thức canh tác quảng canh, chặt phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, ngập mặn đã làm giảm diện tích rừng nguyên sinh, phần lớn rừng tự nhiên hiện nay còn lại là rừng nghèo.
Chất lượng rừng đầu nguồn và diện tích rừng ngập mặn suy giảm nhanh. Một phần diện tích đất trồng trọt ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nhiễm mặn, làm cho diện tích đất canh tác giảm, từ đó,hệ số sử dụng đất có thể giảm từ 3 - 4 lần/năm xuống còn 1 - 1,5 lần/năm. Tại đồng bằng sông Cửu Long, nếu nước biển dâng cao thêm 1m thì khoảng 1,77 triệu ha đất sẽ bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích đất ở vùng này và ước tính, có khoảng 85% người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cần được hỗ trợ.
Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29%), đến nay chỉ còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ che phủ của rừng nước ta đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị hạ xuống mức quá thấp. Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên sinh. 40 năm trước đây, 400.000 ha đất ven biển nước ta được bao phủ bởi rừng ngập mặn, nhưng chỉ trong 5 năm, 2006 - 2011, 124.000 ha rừng ngập mặn ven biển đã biến mất để nhường chỗ cho các ao tôm, ao cá – tương đương diện tích bị mất trong 63 năm trước đó.. Số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy đến hết năm 2012 có hơn 20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều nhất là để làm thủy điện, nhưng chỉ mới trồng bù được hơn 700 ha.
Không những vậy, hiện các doanh nghiệp ở Việt Nam là chủ sở hữu của hơn một nghìn con tàu biển trọng tải lớn, cũ nát. Hầu hết các cảng biển trên thế giới đều không cho phép loại tàu này vào, vì nó quá cũ gây ô nhiễm môi trường lại không bảo đảm an toàn hàng hải. Thế nhưng, hơn một nghìn con tàu cũ nát đó vẫn đang được neo vật vờ ở các tuyến sông, cửa biển để chờ được “hóa kiếp” thành phế liệu mà việc phá dỡ loại tàu biển cũ này sẽ thải ra rác thải nguy hại làm ô nhiễm môi trường sống. Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đã, đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thép lớn, song đồng thời cũng có nguy cơ biến Việt Nam thành nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải.
Biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất, quy mô và cường độ các thiên tai như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, diện tích rừng ngập mặn tự nhiên suy giảm do mở rộng diện tích nuôi ngao, nuôi tôm, cua, diện tích ngập nước nhân tạo ngày càng mở rộng đã làm mất đi sự cân bằng sinh thái, hủy hoại sự đa dạng sinh học vùng ngập nước ven biển.
Tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh kế người dân trong vùng. Thí dụ, sự cố Formasa Hà Tĩnh đã ảnh hưởng trực tiếp, làm thiệt hại sản lượng hải sản khai thác ven bờ và vùng lộng; diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh.
Tại Thanh Hóa, năm 2021, liên tiếp xảy ra tình trạng cá, tôm và ngao nuôi chết hàng loạt. Trong những tháng đầu năm 2022, xã Hải Lộc và Đa Lộc (Hậu Lộc) đã xảy ra hiện tượng ngao nuôi của 176 hộ nuôi, tổng diện tích 350 ha bị chết, với tỷ lệ chết từ 5 - 30%.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu làm suy giảm diện tích đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến sinh kế sinh của nông dân và an ninh lương thực. Hiện cả nước có hơn 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó khoảng 4 triệu ha đất trồng lúa, diện tích này đang bị suy giảm. Trung bình mỗi năm, chuyển 74.000 ha đất nông nghiệp phục vụ xây công trình nhà ở, đô thị và khu công nghiệp. Tốc độ mất đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu là 1%. Năm 2010, diện tích đất lúa trên toàn quốc đã giảm gần 379 nghìn ha, giảm nhiều nhất là thành phố Hồ Chí Minh 3.045ha, Tây Ninh 2.764ha, Long An 2.697ha, Tiền Giang 1.875ha, Bến Tre 1.725ha, Hải Dương 1.642ha, thành phố Hà Nội 1.067ha, Hưng Yên 943ha… Việc mất đất sẽ đẩy cuộc sống người dân vào khó khăn, nông dân thiếu ruộng, thiếu việc làm, đe dọa đến an ninh lương thực.
Có thể nói an ninh môi trường là vấn đề có tính thời sự trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Đảm bảo an ninh môi trường là đảm bảo điều kiện sống cho con người, góp phần quan trọng vào việc ổn định xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.
Ngược lại an ninh môi trường bị xâm hại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của người dân, tạo ra xung đột xã hội giữa người dân với doanh nghiệp, xung đột người dân với chính quyền, xung đột giữa quốc gia giữa nước ta với các nước có có cùng lợi ích, gây ra những bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, đến an ninh quốc gia, kiềm chế sự phát triển kinh tế, xã hội. Quản lý tốt an ninh môi trường sẽ là điều kiện tạo ra sự ổn định xã hội, giải quyết hài hòa các lợi ích về môi trường, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển bền vững của đất nước.
An Như