Ngăn chặn tình trạng suy thoái các vùng đất ngập nước
Vùng đất ngập nước có vai trò quan trọng cho sự sống, là cái nôi của đa dạng sinh học. Thế nhưng, biến đổi khí hậu và các hoạt động khai thác của con người đã khiến cho nhiều vùng đất ngập nước suy thoái nghiêm trọng.
Với khoảng 12 triệu ha, phân bố trên tất cả các vùng sinh thái, vùng đất ngập nước ở Việt Nam đang góp phần quan trọng giúp cân bằng sinh thái, “cái nôi” sinh tồn của hàng nghìn loài sinh vật, và là nguồn sống của hàng triệu người dân.
Vậy nhưng, các vùng đất ngập nước cũng đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất, hay thu hẹp diện tích do sức ép khai thác, sử dụng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên gia tăng.
Nhiều vùng đất ngập nước đang dần bị thu hẹp
Theo bà Hoàng Thị Thanh Nhàn, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Tổng cục Môi trường), các vùng đất ngập nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống. Đất ngập nước cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng cho sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia, cung cấp nguồn lợi phục vụ cho phát triển nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là thủy sản, nông nghiệp, du lịch.
Đất ngập nước còn có khả năng dự trữ cacbon, điều tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, hạn chế lũ lụt, là nơi lắng đọng phù sa, hình thành đất và tham gia tích cực trong vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng của hệ sinh thái toàn cầu. Đất ngập nước cũng là “cái nôi” quan trọng của đa dạng sinh học; bảo vệ, giảm thiểu tác động của bão, nhất là các hệ sinh thái rừng ngập mặn là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển…
Theo số liệu thống kê, các vùng đất ngập nước đã cung cấp lương thực, thủy sản cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đạt trên 10 tỉ USD chỉ riêng trong năm 2017. Khoảng 20 triệu người dân Việt Nam có thu nhập chính hoặc thu nhập một phần từ tài nguyên thủy sản và đang khai thác, sử dụng trên 300 loài hải sản và trên 50 loài thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế.
Trong những năm gần đây, giá trị của đất ngập nước được khai thác mạnh cho phát triển ngành du lịch như đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cần Giờ, Ba Bể, Tràm Chim,... là những điểm thu hút rất nhiều khách trong và ngoài nước.
Ngoài ra, đất ngập nước còn có giá trị về văn hóa, xã hội, lịch sử. Chính đất ngập nước là cội nguồn của nền văn minh lúa nước gắn với đời sống văn hóa, tinh thần và nhiều phong tục của người dân Việt Nam. Đáng chú ý, đất ngập nước còn có giá trị về nghiên cứu khoa học và giáo dục để giúp con người hiểu biết đầy đủ hơn sự vận hành của các hệ thống tự nhiên, góp phần bảo vệ và cải tạo môi trường, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển bền vững.
Chính vì lẽ đó, việc bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước là một trong những mục tiêu ưu tiên trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Dù vậy, bà Hoàng Thị Thanh Nhàn cũng lưu ý các vùng đất ngập nước ở Việt Nam đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Thực tế thời gian qua cho thấy nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất và thu hẹp diện tích do sức ép khai thác, sử dụng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước gia tăng.
Dẫn ví dụ chứng minh, bà Nhàn cho rằng việc quai đê, lấn biển hoặc san lấp các ao, hồ để phát triển các khu công nghiệp, các đô thị hoặc hạ tầng du lịch, ngăn các dòng chảy để làm thuỷ điện, hồ chứa có thể làm suy thoái, thu hẹp một cách nhanh chóng các vùng đất ngập nước.
Cùng với đó, ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, sử dụng phân bón, hóa chất quá mức cũng đã làm cho nhiều dòng sông không còn sức sống, các vùng biển ven bờ bị suy thoái nặng nề. Điển hình là vụ ô nhiễm do chất thải Formosa Hà Tĩnh gây tổn thất nặng nề hệ sinh thái ven biển miền Trung.
Ngoài ra, việc khai thác, đánh bắt quá mức cũng đã ảnh hưởng đến nguồn lợi và đa dạng sinh học của vùng đất ngập nước. Nhiều loài thủy sản có giá trị cao bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng cá thể như cá anh vũ, cá lăng, tôm hùm
Cần sớm thực hiện các biện pháp khôi phục
TS Nguyễn Thành Vĩnh, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cho rằng khôi phục các vùng đất ngập nước đã bị suy thoái là cách hiệu quả và kinh tế để tăng lưu giữ nước mặt và nước ngầm, cải thiện chất lượng nước, duy trì sản xuất nông nghiệp, thủy sản và bảo vệ đa dạng sinh học. Các giải pháp để dừng các hoạt động làm suy thoái đất ngập nước cần được chú trọng.
Khôi phục đất ngập nước và duy trì chu kỳ thủy văn là vô cùng quan trọng đối với việc ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ lũ, cấp nước, cung cấp thực phẩm và bảo tồn đa dạng sinh học.
Đất ngập nước ven biển sẽ đóng một phần quan trọng trong các chiến lược ứng phó với các vấn đề trong khu vực ven biển do nước biển dâng gây ra.
Các chiến lược giải quyết biến đổi khí hậu phải gồm việc sử dụng đất ngập nước một cách khôn ngoan. Các cá nhân, cộng đồng và chính quyền phải hợp tác để bảo vệ, đối phó và phục hồi các hệ sinh thái khỏi các tác động của biến đổi khí hậu.
Trong bối cảnh hiện nay, một số biện pháp cần được thúc đẩy để bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước như đẩy mạnh triển khai hiệu quả Nghị định số 66/2019/NĐ-CP ngày 29/7/2019 về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước trên toàn quốc.
Cần chú trọng việc hoàn thiện và trình ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/2019/NĐ-CP; kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; danh mục các vùng đất ngập nước quan trọng.
Cơ quan chức năng cần tổ chức các hoạt động tuyên truyền và huy động sự tham gia, cam kết của cộng đồng trong bảo tồn, sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, dừng các hoạt động gây suy thoái các vùng đất ngập nước và thúc đẩy phục hồi đa dạng sinh học các vùng đất ngập nước.
Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực quản lý, nâng cao hiệu quả bảo tồn và sử dụng khôn khéo đất ngập nước, đặc biệt là phát huy được các giá trị dịch vụ hệ sinh thái đất ngập nước và bảo vệ được đặc tính sinh thái của các hệ sinh thái đất ngập nước có giá trị cao về đa dạng sinh học, môi trường và kinh tế-xã hội.
Cần quản lý các vùng đất ngập nước cần phải dựa trên phương pháp tiếp cận hệ sinh thái, quản lý tổng hợp các đối tượng, các mối quan hệ qua lại tác động lên các thành phần của hệ sinh thái đất ngập nước và tính đến các yếu tố biến đổi khí hậu, các yếu tố xuyên biên giới để đảm bảo duy trì chất lượng dịch vụ hệ sinh thái của đất ngập nước.
Đầu tư các nguồn lực trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước là nhằm quản lý hiệu quả các hệ sinh thái, khu bảo tồn vùng đất ngập nước của Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 8, Điều 2 Nghị định số 66/2019/NĐ-CP ngày 29/7/2019 của Chính phủ về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam thì vùng đất ngập nước là vùng đầm lầy, vùng đất than bùn, vùng ngập nước thường xuyên hoặc ngập nước tạm thời theo mùa, kể cả các vùng ven biển, ven đảo có độ sâu không quá 6 m khi ngấn nước thủy triều thấp nhất.
Minh Phương