Khởi nghiệp công nghệ số ở Việt Nam: Triển vọng và thách thức
Sự phát triển mạnh mẽ của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đã làm thay đổi cục diện của nhiều ngành nghề, trong đó công nghiệp công nghệ thông tin được nhiều quốc gia chú trọng hơn cả.
Với bối cảnh hiện nay, công nghệ số chính là thước đo để đánh giá sức mạnh, vị trí của mỗi quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, anh ninh - quốc phòng. Tại Việt nam, khởi nghiệp công nghệ số có nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng có không ít thách thức cần vượt qua.
Cơ hội rộng mở trong và ngoài nước
Đổi mới sáng tạo (ĐMST), Khoa học, công nghệ (KHCN) và CMCN 4.0 đang tác động sâu rộng đến các quốc gia. Không những thế ĐMST, KHCN còn được coi là nhân tố đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia, mà trong đó công nghệ số là cốt lõi. Những công nghệ số đang ảnh hưởng tới kinh tế - xã xã hội Việt Nam gồm Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, thực tế ảo và thực tế tăng cường, điện toán đám mây....
35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội. Quy mô tiềm lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đã được nâng lên. Tính tự chủ của nền kinh tế cũng đã được cải thiện. Công nghệ số cũng góp phần không nhỏ vào thành công đổi mới của nước ta.
Theo ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp CNTT (Bộ TT&TT), thị trường công nghệ thế giới đang có rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường phần mềm và dịch vụ CNTT của Việt Nam trong năm 2022 có dung lượng xấp xỉ 2 tỷ USD, tương đương với khối lượng công việc của khoảng 200.000 kỹ sư.
Sau đại dịch Covid -19, nhiều công ty đa quốc gia đã dịch chuyển hoạt động sản xuất từ những nước có tình trạng bất ổn sang Việt Nam. 9 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tăng 7,7% so với cùng kỳ, đạt gần 20,21 tỷ USD, cho thấy môi trường đầu tư Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng. Điều này mở ra nhiều cơ hội hợp tác giao lưu cho các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển.
Khởi nghiệp công nghệ số tại Việt Nam còn gặp nhiều thuận lợi về nguồn nhân lực dồi dào, trình độ ngày một tăng. Nước ta có dân số trẻ, lại nhạy bén với cái mới nhất là công nghệ, không những thế số người trong độ tuổi lao động gấp đôi số người trong độ tuổi phụ thuộc. Tiềm năng lớn để các doanh nghiệp mới khởi nghiệp chiêu mộ được nhân tài, xây dựng đội ngũ nhân viên vững kinh nghiệm.
Ngoài ra, hoạt động chuyển giao công nghệ, ĐMST tại Việt Nam cũng tạo nhiều thuận lợi cho khởi nghiệp công nghệ số. Đầu tư vào ngành công nghệ của các nhà đầu tư trong nước cũng đang tăng. Trong hoạt động khởi nghiệp công nghệ số cũng thu hút nguồn đầu tư đa dạng từ các nhà đầu tư trong nước thông qua các chương trình khởi nghiệp.
Không chỉ có thuận lợi về thị trường, nhân lực mà các doanh nghiệp khi khởi nghiệp công nghệ số ở Việt Nam còn nhận được sự quan tâm của cơ quan nhà nước. Nhằm khuyến khích khởi nghiệp công nghệ số, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển công nghiệp công nghệ số. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị (Khóa XII) đã định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chủ trương này tập trung phát triển CNTT và viễn thông, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp chế tạo thông minh.
Thách thức của khởi nghiệp công nghệ số
Công nghệ số được coi là lõi của nền kinh tế số, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện như hiện nay. Tuy khởi nghiệp công nghệ số có nhiều triển vọng để phát triển nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Nếu những thách thức được gỡ bỏ, việc Việt Nam có tên trên bản đồ công nghệ số của thế giới là điều “dễ như trở bàn tay”.
Thứ nhất, sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp trong khu vực ASEAN
Thời gian tới, doanh nghiệp công nghệ số ở Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh từ những người anh em láng giềng trong ASEAN. Đầu tiên phải kể tới Myanmar với nguồn nhân công giá rẻ, Singapore với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước và sự bảo hộ thị trường của một số quốc gia.
Không chỉ phải tìm cách đứng vững trong nước mà doanh nghiệp Việt phải tìm cách chiếm ưu thế với các đối thủ nước ngoài. Đơn cử Trung Quốc đã tăng cường hỗ trợ về kinh phí cho các DN công nghệ nhằm giảm sự phụ thuộc vào công nghệ lõi nước ngoài, đặt mục tiêu biến Trung Quốc trở thành công xưởng công nghệ toàn cầu.
Để đối mặt và cạnh tranh thành công, doanh nghiệp Việt trước hết phải giải quyết những vấn đề tồn đọng từ bên trong như thiếu năng lực sáng tạo, năng lực ĐMST, giá trị gia tăng của sản phẩm, giải pháp, dịch vụ công nghệ số của các DN vẫn còn ở mức thấp,.... Song song với đó các doanh nghiệp cùng cần sự giúp đỡ từ Nhà nước với việc ban hành hành lang pháp lý nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường quốc tế
Nhìn một cách khách quan, ngành công nghiệp số của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Các sản phẩm phần mềm, phần cứng nội dung số đa phần vẫn được xuất khẩu. Doanh nghiệp khởi nghiệp số còn phải đối mặt với những rủi ro toàn cầu như chiến tranh thương mại, dịch bệnh đang gây ra suy thoái kinh tế. Điều này làm phá vỡ chuỗi sản xuất mà các doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam tham gia, làm thu hẹp các thị trường xuất khẩu truyền thống và ảnh hưởng đến nguồn cung tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.
Để giảm thiểu tác động của các yếu tố bất ổn, Việt Nam cần tăng cường khai thác thị trường nội địa và đảm bảo sự ổn định trong các tình huống có biến động trên thị trường quốc tế. Việc tự chủ trong sản xuất là điều cần thiết để giảm thiểu tác động của các vấn đề toàn cầu.
Thứ ba, khả năng bị thâu tóm bởi đầu tư nước ngoài
Hơn 90% các doanh nghiệp công nghệ số tại Việt Nam vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực đầu tư cho nghiên cứu phát triển các sản phẩm, giải pháp, nền tảng công nghệ số mới còn hạn chế. Khởi nghiệp doanh nghiệp số với tiềm lực tài chính không đủ rất dễ khiến các doanh nghiệp Việt có nguy cơ bị chi phối và phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Từ đó doanh nghiệp có thể bị thâu tóm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp số nước ta.
Thứ tư, gặp khó về nguồn dữ liệu, công nghệ khai thác dữ liệu
Dữ liệu là chìa khóa nền kinh tế số. Tuy nhiên, việc chia sẻ và mở dữ liệu của các bộ ngành Việt Nam chưa phổ biến. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp công nghệ số trong việc phát triển sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực dữ liệu, bởi vì các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn và điều hướng, quản lý và bảo mật thông tin đổi mới sáng đạo đều phụ thuộc vào việc khai thác dữ liệu.
Thêm nữa, sự tụt hậu về công nghệ khai thác dữ liệu cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Dữ liệu kinh tế-xã hội và đời sống của Việt Nam đang bị các doanh nghiệp nước ngoài khai thác, tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các doanh nghiệp công nghệ số trong nước. Điều này gây rủi ro lớn về an ninh quốc gia, an toàn thông tin và ảnh hưởng đến sự cạnh tranh dựa trên sáng tạo. Lĩnh vực kinh doanh dựa trên dữ liệu của các doanh nghiệp trong nước cũng gặp khó khăn do thiếu tư liệu sản xuất.
Thứ năm, nỗi lo chảy máu chất xám là nhân công giá rẻ
Việc mất lợi thế về nhân lực giá rẻ và chưa hình thành nhân lực chất lượng cao đang khiến DN Việt Nam phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài và có nguy cơ mất lao động chất lượng cao vào tay các đối tác công nghệ nước ngoài, đặc biệt là nhân lực tài năng cần thiết cho các hoạt động triển khai CMCN 4.0. Do phạm vi làm việc toàn cầu nhờ môi trường kết nối mạng, các biện pháp quản lý và thúc đẩy truyền thống thông qua sự hiện diện không còn hiệu quả đối với nhân lực mà sản phẩm lao động là tri thức.
Nhận ra cơ hội và thách thức giúp quá trình khởi nghiệp công nghệ số ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Để doanh nghiệp vượt qua khó khăn của thời cuộc và phát huy hết tiềm năng đòi hỏi sự chung sức của xã hội, đặc biệt là sự hỗ trợ từ Đảng và Nhà nước.
Phạm Thu