Công nghệ ngân hàng số phát triển mạnh khi nền kinh tế bị tác động
Tại Việt Nam, cho đến cuối tháng 3/2022, đại dịch Covid-19 vẫn đang có những diễn biến khác và nền kinh tế đang chuyển sang thích ứng mới với đại dịch. Tuy nhiên, dịch Covid-19 vẫn đang tác động nhiều mặt đến nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng chính trong thời gian hơn hai năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam tập trung thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát triển mạnh ngân hàng số, thể hiện nổi bật là phát triển thanh toán điện tử dựa trên nền tảng công nghệ 4.0.
Đây là việc làm cụ thể thực hiện Đề án không dùng tiền mặt trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước bối cách cuộc cách mạng công nghệ số đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, góp phần phát triển bền vững thị trường tài chính. Mục tiêu này được triển khai đồng bộ từ hệ thống Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức trung gian thanh toán khác.
Các biện pháp được triển khai khá toàn diện, từ hoàn thiện môi trường pháp lý, hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, đến đẩy mạnh đầu tư công nghệ và hạ tầng kỹ thuật thanh toán tiện ích và hiện đại, đào tạo cán bộ và giới thiệu cho khách hàng, hướng dẫn và tư vấn sử dụng.
Phát triển thanh toán điện tử hiện đại
Đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng đều chịu trách nhiệm triển khai các dịch vụ thanh toán với khách hàng. Hệ thống ngân hàng tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật thanh toán, bao gồm: hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch và bù trừ điện tử, hệ thống các điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS);
Hệ thống máy giao dịch ngân hàng tự động ATM; hệ thống giao dịch ngân hàng số; hệ thống giao dịch thanh toán bằng phương thức điện tử eKYC và sử dụng mã QR… Kỹ thuật thanh toán điện tử dựa trên nền tảng công nghệ số hiện đại nhất nhưng phù hợp với thực tiễn các NHTM Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam được chú trọng đầu tư, nâng cấp, mở rộng dịch vụ.
Một số NHTM đã tiên phong ứng dụng công nghệ số trên thị trường dịch vụ ngân hàng về việc kết hợp công nghệ xác thực eKYC, Big data (dữ liệu lớn) và AI (trí tuệ nhân tạo) trong việc phê duyệt yêu cầu mở thẻ tín dụng hạn mức cao của khách hàng, nên đã được thực hiện nhanh chóng mà vẫn có độ tin cậy cao.
Theo Thông tư số 16/2020/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, việc mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử (eKYC) mới chính thức được quy định và áp dụng từ ngày 05/3/2021.
Trước đó, một số NHTM đã từng bước thí điểm phương thức này trong năm 2020. Song phải đến thời điểm khung pháp lý quy định nói trên có hiệu lực, cạnh tranh ứng dụng eKYC mới thực sự bắt đầu sôi động (SBV, 2018-2021).
Đến nay, trên toàn quốc có khoảng gần 40 bệnh viện triển khai thanh toán viện phí điện tử; 50 NHTM hoàn thành kết nối thanh toán thuế điện tử với cơ quan thuế, hải quan trên 63 tỉnh/thành phố, 95% số thu hải quan thực hiện qua ngân hàng; 99% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện tử; 27 NHTM và 10 tổ chức trung gian thanh toán phối hợp thu tiền điện.
Doanh thu tiền điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam thanh toán qua ngân hàng lên tới gần 90%. Các ví điện tử cũng phối hợp với các NHTM thực hiện thu tiền nước sạch, cước phí viễn thông, bào hiểm nhân thọ… hàng tháng qua ngân hàng (BIDV, 2020-2021).
Khuyến nghị chính sách về phát triển ngân hàng mở
Để sớm khắc phục những khó khăn và vướng mắc nói trên, cần giải quyết các vấn đề sau:
Một là, các bộ ngành chức năng cần đẩy mạnh hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến áp dụng công nghệ số, hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia thống nhất, cho phép các NHTM được khai thác, phục vụ quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng là hết sức cần thiết và có tính cấp bách hiện nay ở Việt Nam, trong quá trình tiếp tục phát triển mạnh công nghệ ngân hàng số, hội nhập sâu rộng với cộng đồng tài chính quốc tế.
Hai là, sự chuyển dịch mô hình kinh doanh ngân hàng từ hệ sinh thái đóng sang hệ sinh thái mở sẽ là bước đột phá quan trọng mang lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh tế, nhưng những rủi ro, thách thức vẫn đi cùng là điều khó tránh. Vì vậy, các NHTM cần chủ động tích cực trong quá trình chuyển đổi, bảo đảm lợi thế cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của lộ trình xây dựng hệ thống ngân hàng số quốc gia. Tuy nhiên, để thành công thì cần có hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với thực tiễn trên quan điểm áp dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng. Đây là trách nhiệm của các bộ ngành chức năng.
Ba là, chuyển đổi số và dịch chuyển mô hình kinh doanh ngân hàng sang hệ sinh thái mở với việc ứng dụng Open banking đang là xu hướng tất yếu hiện nay. Do đó, một mặt, các NHTM cần chủ động và tích cực hơn nữa trong quá trình chuyển đổi số nói chung và phát triển ngân hàng mở nói riêng. Nhưng mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần đồng hành trong việc hình thành các cơ chế, chính sách, khuôn khổ pháp lý phù hợp. NHNN, các bộ/ngành chức năng cần tổng hợp ý kiến đề xuất của các NHTM, khảo sát kinh nghiệm quốc tế xây dựng chính sách phù hợp, thúc đẩy thị trường phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là, tại Việt Nam hiện nay chưa có quy định và hướng dẫn riêng và đầy đủ về lĩnh vực ngân hàng mở, mới chỉ có những chính sách chung về chuyển đổi số và một số quy định riêng lẻ liên quan tới một số khía cạnh của ngân hàng mở cả về pháp lý cũng như kỹ thuật.
Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 1977/QĐ-NHNN ngày 10/12/2021 về việc thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác chuyển đổi số ngành ngân hàng. Đây được xem là một cú hích đối với quá trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng. Đối với việc xây dựng, triển khai ngân hàng mở tại các NHTM tại Việt Nam, về khung pháp lý các ngân hàng đang chủ yếu dựa vào Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán trong đó có các điều khoản cho phép ngân hàng được hợp tác với bên thứ ba cung cấp dịch vụ tài chính;
Ngoài ra, còn có các nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ/ngành quy định về ngân hàng điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, các điều kiện an toàn kỹ thuật, bảo mật thông tin khách hàng… Những nội dung này đã ít nhiều quy định các khía cạnh khác nhau liên quan tới ngân hàng mở.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu hành lang pháp lý riêng, đầy đủ, cụ thể để hỗ trợ thuận lợi cho các TCTD triển khai ngân hàng mở. Đó là một trong những công việc sắp tới của cơ quan quản lý nhà nước. Tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế cả giác độ chính sách lẫn giác độ ứng dụng cụ thể các định chế tài chính chắc chắn sẽ rất hữu ích cho quá trình xây dựng chính sách và hành lang pháp lý cho ngân hàng mở Việt Nam.
Năm là, để triển khai hiệu quả Open banking cần có sự chủ động và phối hợp đồng bộ, có hiệu quả các bộ ngành chức năng, của NHNN và của các NHTM. Open banking là lĩnh vực hoàn toàn mới, trong đó khâu then chốt là Open API. Với tư cách là phương thức kỹ thuật để các bên giao tiếp thì API cần có các quy định hướng dẫn, không có Open API thì sẽ không có Open banking.
Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về ngân hàng mở tại Việt Nam đã có nhưng chưa đầy đủ, được quy định phân tán tại một số điều trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Giao dịch điện tử, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về trách nhiệm của ngân hàng trong việc bảo mật thông tin khách hàng;
Tại Nghị định số 117/2018/NĐ-CP quy định khách có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin của chính khách hàng theo thỏa thuận giữa các bên và phù hợp với quy định của pháp luật; một số nghị định quy định xử lý vi phạm về thông tin cá nhân. Do đó, cần xây dựng mới nghị định của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân; về định danh và xác thực điện tử.
Về phát triển ngân hàng số
Phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm cho khách hàng là mục tiêu chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025 và định hướng năm 2030, là giải pháp hiệu quả phát triển thanh toán không dùng tiền mặt theo Đề án phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
Mục tiêu cụ thể được ngành ngân hàng Việt Nam đặt ra đến năm 2025 là: 50% nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng thực hiện hoàn toàn trên kênh số; 50% người trưởng thành sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử; 70% số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số; 50% quyết định giải ngân vốn cho vay của các NHTM, công ty tài chính đối với khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng của cá nhân được số hóa… (Chính phủ, 2018-2021).
Một là, NHNN cần chủ động tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, cụ thể với các bộ, ngành liên quan tập trung, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo thuận lợi cho các hoạt động chuyển đổi số và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là việc triển khai các mô hình cung ứng dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ mới.
Hai là, ngành ngân hàng có chiến lược cụ thể tiếp tục đầu tư các nguồn lực cho phát triển hạ tầng số, kết nối, chia sẻ dữ liệu ngân hàng với các dữ liệu ngành, lĩnh vực khác; hình thành các mô hình ngân hàng số, nâng cao công tác an ninh, an toàn bảo mật… Ngành ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp và tăng cường tiện ích, chất lượng dịch vụ đối với hạ tầng thanh toán quốc gia.
Ba là, cần đẩy nhanh hoàn thiện các tiêu chuẩn kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân, cho phép ngành ngân hàng khai thác thông tin trên chip thẻ căn cước công dân, đặc biệt là các yếu tố sinh trắc học, qua đó, hỗ trợ định danh, xác thực khách hàng bằng phương thức điện tử, tăng độ chính xác trong định danh, xác thực khách hàng.
Bốn là, các NHTM cần chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng ưu tiên kỹ thuật số, hoặc theo mô hình tương tác gắn kết đa kênh tích hợp xoay quanh triển khai nhanh gọn, linh hoạt công nghệ trí tuệ nhân tạo và năng lực máy học.
Việt Nam là một trong những quốc gia có sự tăng trưởng mạnh mẽ về thương mại điện tử. Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, doanh thu thương mại điện tử năm 2020 đạt 11.8 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2019. Để theo kịp sự phát triển của thương mại điện tử, việc thí điểm sử dụng CBDC sẽ góp phần thúc đẩy nền thương mại điện và nền kinh tế số. Thanh toán qua CBDC rất nhanh chóng, vì vậy, tiết kiệm chi phí giao dịch; đồng thời tạo nên một cuộc cách mạng toàn cầu về thanh toán, giúp phát triển mạnh hơn nữa thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bùi Hằng