Cần một thể chế, một cách tiếp cận mới để cải thiện chất lượng môi trường Vùng Thủ đô
Bài viết bàn về thể chế và cách tiếp cận như thế nào để có thể cải thiện chất lượng môi trường, tập trung chủ yếu vào chất lượng không khí Vùng Thủ đô nói chung và Hà Nội nói riêng.

Lời tòa soạn:
Nằm trong tuyến bài viết về chủ đề "Tái thiết môi trường liên vùng Thủ đô: Từ quy hoạch chiến lược đến giải pháp hành động", bài viết trước với tiêu đề: "Từ vùng không khí bị bóp nghẹt đến những dòng nước suy kiệt" đã nêu lên thực trạng về tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các dòng sông liên vùng như sông Đáy, sông Nhuệ... Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng không khí của Hà Nội nói riêng và Vùng Thủ đô nói chung đang cần các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư vào cuộc, chung tay giải quyết. Bài viết số 2 với tiêu đề: "Cần một thể chế, một cách tiếp cận mới để cải thiện chất lượng môi trường Vùng Thủ đô", chúng tôi chỉ xin bàn tới thể chế và cách tiếp cận như thế nào để có thể cải thiện chất lượng môi trường, tập trung chủ yếu vào chất lượng không khí Vùng Thủ đô nói chung và Hà Nội nói riêng.

Chắc chắn, khi đánh giá chất lượng môi trường (CLMT) của một địa phương cụ thể thì không chỉ xem xét các yếu tố tác động ở chính địa phương đó mà phải mở rộng đánh giá tác động đến từ các vùng chung quanh và cũng phải đánh giá cả ảnh hưởng của địa phương này đến các khu vực lân cận nữa. CLMT, đặc biệt là môi trường nước và chất lượng không khí, có thể do nguồn tác động mà cụ thể là nguồn thải từ rất xa, thậm chí là tác động xuyên biên giới, nghĩa là đến từ nước khác.
Những năm gần đây, tính đến 2025, CLMT nói chung và chất lượng không khí (CLKK) nói riêng có nhiều biến động, trong đó CLKK được đánh giá là bị suy giảm, thậm chí ô nhiễm đã xảy ra ở một số nơi thuộc các khu vực đô thị lớn, khu vực gần các nguồn thải chưa được kiểm soát tốt.
Dù sao, nhân dân cũng đã ghi nhận nỗ lực to lớn của các cấp quản lý, các ngành kinh tế, các nhà khoa học đã giúp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường (BVMT). Môi trường nước mặt đã được cải thiện ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các lưu vực sông, nhiều nhà máy xử lý nước thải đã và đang được xây dựng ở các khu công nghiệp, các khu vực đô thị để có nước đầu ra sau xử lý đảm bảo quy chuẩn quốc gia để đưa vào các thủy vực. Rác thải nói chung và rác thải sinh hoạt đã và đang được xử lý để giảm thiểu tác động có hại đến môi trường.
Riêng trên địa bàn Hà Nội, nước các hồ, sông nội đô đã được cải thiện về chất lượng; sông, hồ đã được kè bờ, rác thải được vớt liên tục, nhiều hệ thống xử lý đã được lắp đặt. Hiện đang cố gắng thu gom nước thải ra sông, hồ nội đô về các nhà máy xử lý nhằm giảm ô nhiễm và xây dựng dự án hệ thống cấp nước nuôi sông Tô Lịch (có thể từ nước sông Hồng).
Đối với rác thải, Hà Nội đã có Nhà máy Điện rác Sóc Sơn do Công ty cổ phần Năng lượng môi trường Thiên Ý Hà Nội xây dựng và vận hành, hàng ngày đốt/xử lý khoảng 4.000 tấn rác. Gần đây nhất, ngày 18/9, tại Khu xử lý chất thải rắn Xuân Sơn, phường Tùng Thiện, UBND thành phố Hà Nội và Tập đoàn AMACCAO tổ chức khánh thành Nhà máy đốt rác phát điện Seraphin, công suất 2.250 tấn/ngày, đêm - tương đương khoảng 1/3 lượng rác thải sinh hoạt của toàn thành phố và phát ra 37 MW điện mỗi giờ, đủ cung cấp cho hàng chục nghìn hộ dân. Toàn bộ quá trình đốt rác, nhà máy sử dụng công nghệ Martin (CHLB Đức), giúp giảm 97-98% tỷ lệ chôn lấp, đồng thời bảo đảm các chỉ tiêu phát thải, khí thải, bụi mịn đạt chuẩn khắt khe EU2010. Điểm đáng chú ý, sản phẩm phụ từ quá trình xử lý rác như tro xỉ được tận dụng để sản xuất bê-tông đúc sẵn, gạch không nung, góp phần phát triển kinh tế tuần hoàn. Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Trọng Đông nhấn mạnh trong buổi lễ khánh thành rằng, đưa vào vận hành Nhà máy điện rác Seraphin mới chỉ là bước khởi đầu. Thành phố đặt mục tiêu trong thời gian tới sẽ chấm dứt hoàn toàn việc chôn lấp rác thải sinh hoạt, thay thế bằng các công nghệ xử lý tiên tiến như đốt rác phát điện, tái chế, tái sử dụng.
Việc vận hành các nhà máy điện rác đã giảm hẳn những vấn đề phát sinh liên quan ở Hà Nội. Có lẽ vấn đề còn nhiều bức xúc ở Hà Nội và vùng lân cận là CLKK vẫn ở mức gây hại cho sức khỏe và nhiều mặt đời sống nhân dân và được phương tiện thông tin đại chúng đề cập thường xuyên.

Hà Nội được coi là nơi không khí đã bị ô nhiễm bụi, nồng độ bụi mịn PM2.5 và bụi PM10 đã ở mức cao, giá trị trung bình năm đo được ở một số trạm đo tự động, liên tục, cố định (có thể coi là trạm chuẩn) đã vượt quy chuẩn tương ứng được quy định trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về CLMT không khí mới nhất (QCVN 05:2023/BTNMT). Theo quy chuẩn này, nồng độ trung bình năm tối đa cho phép đối với PM2,5 là 25 μg/Nm3 còn đối với PM10 là 50 μg/Nm3. Trong khi đó, nồng độ trung bình năm đo tại một số trạm chuẩn đã vượt khá xa giá trị quy định trong quy chuẩn này.
Riêng đối với CLKK, qua tham khảo một số tài liệu chính thống cho thấy, mặc dù vấn đề này chưa được đề cập nhiều, tuy nhiên, trong những văn bản mới nhất cũng đã ghi nhận CLKK đã và đang bị suy giảm ở một số địa phương. Trong Chỉ thị số: 20/CT-TTg, Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2025 của Thủ tướng đã nêu rõ:“Tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số nơi còn rất nghiêm trọng, nhất là ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn, ô nhiễm môi trường nước tại các địa bàn tập trung đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề... Riêng địa bàn thành phố Hà Nội, mức độ ô nhiễm môi trường không khí tại một số thời điểm trong năm thuộc nhóm cao trên thế giới, các thông số môi trường nước các sông ở nội thành vượt giới hạn cho phép nhiều năm liên tục”.
Hay trong Kế hoạch Quản lý chất lượng môi trường không khí thành phố Hà Nội đến năm 2030, định hướng đến năm 2035 (lập năm 2024) đã trích dẫn Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016-2020 cho thấy: nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm tại thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2018-2020 vượt khoảng gần 2 lần giá trị quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 05:2013/BTNMT (cùng giá trị trong QCVN 05:2023 cả đối với PM10). Nồng độ bụi PM10 trung bình năm vượt quá giới hạn QCVN từ 1,3 đến 1,6 lần. Số ngày trong năm 2019 có chỉ số chất lượng không khí (VN_AQI) ở mức kém và xấu (tính trung bình các trạm) chiếm tỷ lệ 30,5% tổng số ngày quan trắc trong năm, một số ngày chất lượng không khí suy giảm đã chạm đến ngưỡng rất xấu (VN_AQI=201-300).
Mới đây nhất, trong cuộc họp nghe báo cáo về kế hoạch hành động quốc gia khắc phục ô nhiễm lưu vực sông, môi trường không khí; tình hình xử lý ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội, TP.HCM, diễn ra ngày 11/9/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã phát biểu [1]: "Thực tế cho thấy, ô nhiễm vẫn tăng theo từng năm và tỷ lệ thuận với quá trình tăng trưởng kinh tế, phản ánh một mô hình phát triển chưa bảo đảm chất lượng môi trường. Mong muốn của người dân về môi trường trong lành là chính đáng”.
Vấn đề CLKK của Hà Nội nói riêng và Vùng Thủ đô nói chung đang cần các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư vào cuộc, chung tay giải quyết, Tuy nhiên, đây là vấn đề không dễ, phải tiến hành lâu dài và cũng tốn kém nhiều nguồn lực như kinh phí, nhân lực, khoa học, công nghệ, thiết bị,…
Với bài viết ngắn này chỉ xin bàn tới thể chế và cách tiếp cận như thế nào để có thể cải thiện CLMT, tập trung chủ yếu vào CLKK Vùng Thủ đô nói chung và Hà Nội nói riêng.

Vấn đề quản lý chất lượng không khí (QLCLKK) là vấn đề lớn đặt ra cho tất cả các quốc gia và được quan tâm của toàn bộ thế giới.
Về lý thuyết, QLCLKK là làm rõ và thực hiện các vấn đề sau:
1. Ai/cơ quan nào có trách nhiệm QLCLKK
2. Những vấn đề nào phải được quản lý
3. Các phương pháp, cách thức, công cụ quản lý nào được chọn.
4. Đánh giá hiệu quả QLCLKK qua mức độ giảm nồng độ chất ô nhiễm không khí
Đối với vấn đề đầu tiên, mặc dù trách nhiệm cải thiện CLKK là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn dân nhưng vẫn cần một cơ quan với người đứng đầu có đủ quyền lực, có tâm, có tầm và có tài để gánh vác trọng trách, chịu trách nhiệm chính. Chắc chắn, ở quy mô quốc gia, quy mô vùng thì trọng trách này thuộc Chính phủ nhưng phải có đơn vị và cá nhân chịu trách nhiệm rõ ràng. Nên chăng đã đến lúc phải có ủy ban/ban QLCLKK của Chính phủ do một lãnh đạo đứng đầu để chỉ đạo chung. Đối với Vùng Thủ đô cũng cần một tổ chức dạng này để điều hành mọi hoạt động. Nói cách khác phải có một người đủ quyền lực, đủ tâm, đủ tài, đủ nguồn lực (chủ yếu là nhân lực, công nghệ và kinh phí) để lãnh đạo điều hành.
Người đứng đầu ở cấp Chính phủ có quyền điều hành, quyền yêu cầu, triệu tập lãnh đạo các Bộ/Ngành, lãnh đạo địa phương lên làm việc và cùng thực hiện công việc cải thiện CLMT nói chung và CLKK nói riêng. Ngoài ra, có quyền triệu tập/yêu cầu/mời các nhà khoa học, các cơ sở nghiên cứu có liên quan đến để thảo luận/bàn bạc các giải pháp thực hiện, đồng thời giao việc cho họ thực hiện theo chuyên ngành sâu họ có.
Theo ngành dọc thì bên dưới Chính phủ là Ủy ban Nhân dân (UBND) cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và cấp xã/phường. Ở các cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, đặc biệt là hai thành phố lớn cũng phải có người/tổ chức cụ thể đứng ra chịu trách nhiệm. Người đứng đầu này cũng phải có quyền điều hành các sở/ban/ngành thuộc đơn vị mình và yêu cầu/mời các nhà khoa học vào cuộc cùng giải quyết vấn đề đang đặt ra.
Vai trò của địa phương rất quan trọng và mang tính quyết định, đúng như Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nói: "Người Việt Nam cần được thở không khí sạch, sống trong môi trường an toàn và phát triển. Môi trường là nhiệm vụ của địa phương, Trung ương hỗ trợ, hướng dẫn và cam kết tiến độ. Khi địa phương thực hiện tốt, hiệu quả sẽ lan tỏa ra toàn quốc".
Theo chúng tôi, có nhiều vấn đề môi trường không thuộc một địa phương cụ thể mà mang tính liên tỉnh/thành phố, liên vùng, thậm chí có yếu tố quốc tế nên những vấn đề này vẫn cần lãnh đạo trực tiếp ở cấp Chính phủ, đúng như chỉ đạo của Phó Thủ tướng: "Nếu chỉ dựa vào một địa phương như Hà Nội thì khó có thể giải quyết triệt để, do vậy cần sự phối hợp đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và giữa các vùng, nhằm từng bước cải thiện môi trường sống cho người dân. Chúng ta phải vận động được sự tham gia của Nhân dân, để người dân ủng hộ các chính sách, đồng thời tránh những xung đột và nhận thức chưa đầy đủ" [1].

Nhân dân và cộng đồng rất muốn biết tên tuổi những người đứng đầu lãnh đạo công cuộc cải thiện/nâng cao CLMT các cấp trong giai đoạn tới để tin tưởng hơn vào việc đạt được các mục tiêu đề ra.
Trong các vấn đề đặt ra để quản lý, chúng tôi nhận tấy có những vấn đề cần làm ngay, bao gồm:
Kiểm kê chất thải: xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải có thể cập nhật hàng năm và có thể chia sẻ, cung cấp số liệu cho các đối tượng cần sử dụng. Hiện tại, do chưa có cơ sở dữ liệu này nên quản lý môi trường còn rất hạn chế, chưa chỉ rõ được những nguồn có thể gây suy giảm CLMT và chưa thể tìm ra giải pháp giảm phát thải hiệu quả. Hiện nay, trong KKCT mới chỉ quan tâm đến các chất ô nhiễm quy định trong QCVN như bụi (PM2,5, PM10, TSP), SO2, NOx, … trong thời gian tới cần quan tâm kiểm kê cả các chất tiền thân của các chất ô nhiễm thứ cấp (như NH3 chẳng hạn).
Xây dựng hệ thống quan trắc đủ mạnh để có số liệu làm rõ hiện trạng CLMT, cả nước (nước mặt, nước ngầm), không khí, đất,… Số liệu thu được phải đủ độ tin cậy, đủ độ chính xác, được lưu giữ dưới dạng cơ sở dữ liệu để có thể giúp cơ quan chức năng nắm rõ mức độ CLMT theo các quy mô khác nhau. CLMT được mọi người dân quan tâm nên chỉ khi có đủ số liệu quan trắc, có phương pháp xử lý, đánh giá tốt mới có thể công bố để người dân và các đối tượng có yêu cầu được biết. Hiện tại, cơ sở dữ liệu này chưa đủ tốt nên thực trạng, mức độ CLMT đôi khi còn thiếu chính xác, gây bức xúc cho người dân.
Tiến hành nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch dự án có tính khả thi cao, có cơ sở khoa học rõ ràng và huy động được tất cả nguồn lực cần thiết để thực hiện. Các dự án phải có mục tiêu cụ thể về mức cải thiện CLKK (giảm nồng độ chất ô nhiễm bao nhiêu, vào thời điểm nào chẳng hạn), phải tính toán được hiệu quả kinh tế-môi trường, nghĩa là chi phí bỏ ra sẽ là bao nhiêu, lợi ích nó mang lại bao nhiêu và phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát để có thể điều chỉnh, đảm bảo thực hiện được mục tiêu đề ra, chẳng hạn như dự án Hệ thống cấp nước, “nuôi” sông Tô Lịch hay dự án Xây dựng Vùng phát thải thấp của Hà Nội cần phải có đánh giá hiệu quả chi phí - lợi ích mở rộng.
Tất nhiên, còn có nhiều vấn đề cần quản lý khác nhưng không thể trình bày kỹ trong bài viết này, chỉ nhắc đến khi cần thiết.
Về các phương pháp, cách thức, công cụ quản lý cần lựa chọn, cần nêu rõ vai trò của các công cụ chính sách với những luật và văn bản dưới luật có cơ sở khoa học, có tính khả thi và được tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, theo chúng tôi quy định người gây ô nhiễm phải trả tiền trong luật và văn bản dưới luật còn thiếu điều kiện thi hành. Bởi vì, không có kiểm kê khí thải thì biết ai là người gây ô nhiễm, họ phát thải nhiều ít thế nào, có vượt các quy chuẩn hay không và kiểm soát phát thải, định chế tài xử phạt vẫn còn thiếu điều kiện thực thi. Trong thực tế, rất ít vi phạm bị xử lý là một trong những nguyên nhân “nhờn” luật hiện nay.
Công cụ kinh tế được coi là công cụ quản lý có hiệu quả nhất nhưng liệu mức thuế/phí BVMT hiện thu được đã phản ánh đúng những mức thiệt hại do suy giảm CLKK hay chưa vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Nhiều giải pháp, cách thức, công cụ quản lý đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất nhưng vẫn chưa được xem xét, thử nghiệm, áp dụng trong thực tế. Đây là điều cần cải thiện trong tương lai gần để tìm ra giải pháp có cơ sở khoa học, có tính thực tiễn, tính khả thi và hiệu quả cao để áp dụng nhằm kiểm soát, quản lý, cải thiện, nâng cao CLKK một cách nhanh nhất có thể.
Đánh giá hiệu quả quản lý CLKK qua mức độ giảm nồng độ chất ô nhiễm không khí là một trong vấn đề cần triển khai bài bản để làm rõ hiệu quả của công tác QLCLKK nói chung và của các dự án giảm thiểu phát thải, cải thiện, nâng cao CLKK nói riêng. Trong lý thuyết kinh tế thị trường, phương pháp phân tích chi phí - lợi ích (CBA) kinh tế thuần và phân tích chi phí - lợi ích mở rộng (ECBA) được đề xuất thực hiện và thực tế áp dụng cho thấy hiệu quả đánh giá rất cao. Rất tiếc, các phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa cho biết cụ thể hiệu quả thu được của nhiều hoạt động QLCLKK cũng như của các dự án triển khai để nâng cao CLKK. Rất mong các phương pháp này sẽ được xem xét, đưa vào áp dụng càng sớm càng cho hiệu quả cao.

Bảo vệ môi trường là một vấn đề lớn có liên quan mật thiết đến tất cả hoạt động sống của con người, từ việc khai thác tài nguyên, các hoạt động sản xuất của cải vật chất, các hoạt động văn hóa xã hội và cả tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. Nhu cầu sống của con người đang có xu hướng tăng cao, đi từ ăn no đến ăn ngon, ăn lạ, từ mặc lành, mặc ấm đến mặc đẹp rồi mặc lạ với nhiều loại thức ăn, vải vóc, vật trang trí, làm đẹp đang được nghiên cứu ngày một nhiều, rồi cả các loại thuốc chữa bệnh nữa đã làm tăng cường hoạt động khai thác tài nguyên và thải nhiều loại chất thải ra môi trường.
Lịch sử cho thấy, các nước phát triển (như Mỹ chẳng hạn) và những nước phát triển nhanh (Trung Quốc, Ấn Độ) đã phải đánh đổi rất nhiều để có mức phát triển như hôm nay và bây giờ vẫn đang là tác nhân gây tác động môi trường lớn nhất với mức tiêu thụ năng lượng cực lớn và phát thải nhiều chất ô nhiễm ra môi trường, đặc biệt là phát thải khí nhà kính (KNK). Việt Nam là nước phát triển sau nhưng cũng là nước có mức tăng trưởng GDP cao nên cũng cần xem xét nghiêm túc khả năng tác động đến môi trường. Theo nhiều nhà khoa học, Việt Nam là nước phát triển sau sẽ có thuận lợi, nếu nghiên cứu tốt sẽ tránh được những thất bại đã từng xảy ra ở các nước đã phát triển.
Với tính chất như vậy, cách tiếp cận BVMT nói chung, giảm thiểu phát thải chất ô nhiểm, giảm thiểu tác hại đến môi trường,… nói riêng phải phù hợp và có lẽ hợp lý nhất là tiếp cận Hệ thống. Xin dẫn ra đây hai định nghĩa/khái niệm mà chúng tôi tìm được trên mạng để thấy rõ khả năng giải quyết các vấn đề bằng tiếp cận hệ thống:
Tiếp cận hệ thống là một phương pháp toàn diện và liên ngành để hiểu các vấn đề phức tạp bằng cách xem chúng như những hệ thống liên kết với nhau, với các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, chứ không phải là các bộ phận riêng lẻ. Phương pháp này nhấn mạnh các mối quan hệ, tương tác và ý tưởng rằng "tổng thể lớn hơn tổng các bộ phận của nó", tập trung vào chức năng tổng thể và các đặc tính nổi bật của một hệ thống để tìm ra giải pháp và tránh những hậu quả tiêu cực.
Tiếp cận hệ thống là một cách tư duy và phương pháp làm việc nhìn nhận đối tượng nghiên cứu, giải quyết vấn đề dưới góc độ toàn bộ hệ thống, bao gồm các yếu tố cấu thành và mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng, thay vì chỉ xem xét từng bộ phận riêng lẻ. Mục tiêu của phương pháp này là hiểu rõ cấu trúc, chức năng và các mối liên hệ của hệ thống để đưa ra giải pháp hiệu quả và bền vững cho các vấn đề phức tạp.
Như vậy là đã rõ, cần cách tiếp cận hệ thống nhưng bắt đầu từ đâu, tiếp cận như thế nào và tiến hành các hoạt động ra sao là việc không hề dễ dàng. Dưới đây chỉ xin nêu một số tiếp cận cụ thể, cần làm ngay:
Tiếp cận nghiên cứu cơ bản: Đây là cách tiếp cận phải được ưu tiên. Bởi vì, chỉ tiến hành nghiên cứu cơ bản tốt mới có thể nhận thức đúng các vấn đề môi trường cùng phạm vi mức độ của nó. Nghiên cứu cơ bản bao gồm nghiên cứu lý thuyết, đo đạc, phân tích số liệu và xây dựng các phương pháp/mô hình tính toán. Hiện tại, theo chúng tôi, nghiên cứu cơ bản liên quan đến CLMT của Việt Nam còn nhiều hạn chế, phải tăng cường đầu tư cho các đề tài nghiên cứu, các hệ thống đo đạc, phân tích đủ độ chính xác, đủ độ tin cậy để xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải và CLMT có tính ứng dụng cao.
Khi tiến hành nghiên cứu hiện trạng và diễn biến CLKK ở Hà Nội, các nhà khoa học đã chỉ ra rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu cơ bản giải quyết, chẳng hạn, các nguồn thải của Hà Nội đóng góp vào nồng độ chất ô nhiễm Hà Nội bao nhiêu phần trăm, hay sự hình thành bụi mịn (PM2,5) thứ cấp và đóng góp của chúng trong nồng độ bụi mịn ra sao rất cần làm rõ.
Tiếp cận không gian: Chắc chắn không gian nghiên cứu vấn đề môi trường phải đủ lớn, bao gồm không gian cả nước, thậm chí cả quốc gia bên ngoài (lưu vực sông lớn như sông Mê Kông (Mekong), sông Hồng chẳng hạn, thậm chí là quy mô toàn cầu gắn liền với biến đổi khí hậu (BĐKH) làm mực nước biển dâng, làm tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan. Tuy nhiên, trong bài viết này chỉ nêu cách tiếp cận vùng trên lãnh thổ Việt Nam, nơi đang có những vấn đề môi trường bức xúc, có thể kể đến là suy giảm, ô nhiễm không khí ở một số vùng có các đô thị lớn, điển hình là Hà Nội và Thanh phố Hồ Chí Minh (TP HCM) hay các lưu vực sông nhận nhiều nguồn thải và có chất lượng nước suy giảm, điển hình là 3 lưu vực/hệ thống sông: Sông Cầu, Sông Nhuệ - Sông Đáy và Sông Đồng Nai. Vấn đề đặt ra là phải có nghiên cứu, nhận dạng, đánh giá đúng phạm vi, thực trạng vấn đề môi trường để có giải pháp khắc phục.

Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến Vùng Thủ đô. Theo các văn bản Luật thì Vùng Thủ đô được quy định trong Luật Thủ đô có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2025:
“Vùng Thủ đô là khu vực liên kết phát triển kinh tế - xã hội gồm thành phố Hà Nội và một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lân cận do Chính phủ quyết định”.
Cho đến nay, Chính phủ chưa có văn bản quyết định ranh giới/phạm vi Vùng Thủ đô, nhưng trong chỉ thị số: 20/CT-TTg, Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2025 có đề cập đến “Vùng Thủ đô mở rộng là sự phát triển đa cực của Vùng Thủ đô Hà Nội, bao gồm Hà Nội là đô thị hạt nhân và các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang và các huyện, thị xã thuộc Hà Nội”. Chắc chắn sau khi sát nhập một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì Chính phủ phải quy định lại phạm vi này. Một phương án mới là “Vùng Thủ đô mới” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất là gộp 10 tỉnh Vùng thủ đô cũ với 5 tỉnh duyên hải Bắc bộ”.
Như vậy, vẫn phải đợi quyết định cuối cùng của Chính phủ, nhưng với các nhiệm vụ BVMT thì Vùng Thủ đô sẽ bao gồm nhiều địa phương xung quanh Thủ đô và có tác động ảnh hưởng lớn đến môi trường Thủ đô và ngược lại. Vì vậy, trong những dự án cụ thể có thể đưa ra khu vực nghiên cứu bao gồm một phần hoặc có thể bao trùm Vùng Thủ đô được quy định. Xin dẫn ra một vùng nghiên cứu do Viện Phân tích Hệ thống Ứng dụng Quốc tế (IIASA. Cộng Hòa Áo), Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ (CRETECH, Việt Nam) sử dụng trong đánh giá CLKK Hà Nội (hình) làm ví dụ.
Chắc chắn, các nguồn thải chất ô nhiễm không khí lớn của các tỉnh xung quanh sẽ ảnh hưởng nhiều đến CLKK Hà Nội và ngược lại. Tương tự như vậy, nước thải từ các sông chảy vào Thủ đô sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thủy vực tiếp nhận và ngược lại.

Tiếp cận nguồn thải: Đây là cách tiếp cận trực tiếp để nắm chắc mức thải các chất ô nhiễm ra môi trường. Hiện tại, chúng ta chưa có cơ sở dữ liệu nguồn thải đủ độ tin cậy, mang tính chính thống nên nhiều khi còn lúng túng trong quản lý nguồn thải. Kiểm kê nguồn thải (cả khí thải, nước thải, rác thải/chất thải rắn) và xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải phải được làm ngay trong vài năm tới (tính từ 2026). Đây là công việc không hề dễ và cũng phải đầu tư nhiều sức lực, tiền của, thời gian mới có được cơ sở dữ liệu như ý. Hiện tại, vai trò của các nguồn thải chưa được phân định rõ nên cần những quy định pháp luật có hiệu lực cao yêu cầu các nguồn thải phải tiến hành tự kiểm kê chất thải và cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý.
Mặt khác, các cơ quan quản lý nguồn thải phải có đủ lực lượng, nguồn lực để có thể kiểm định số liệu từ các nguồn thải gửi lên và khi cần phải tiến hành xác định mức thải của từng nguồn thải để so sánh. Đặc biệt, khi có đợt kiểm kê khí thải thì các nguồn thải phải cung cấp các số liệu cần thiết theo yêu cầu của phương pháp kiểm kê đã được cho phép thực hiện. Tránh tình trạng các nghiên cứu viên khó, thậm chí không thể tiếp cận chủ nguồn thải để thu thập số liệu. Nhất là khi nguồn thải được quản lý bởi nhiều cơ quan khác nhau càng làm công tác kiểm kê chất thải gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là lý do mà người đứng đầu dự án kiểm kê chất thải phải có đủ quyền lực yêu cầu các nguồn thải hợp tác, cung cấp đầy đủ, chính xác các số liệu dùng để xác định mức thải.
Tiếp cận, xác định đúng sự thật. Chúng ta phải đối diện với câu hỏi là Nhận thức về các vấn đề môi trường đã thấu đáo chưa; Thực hiện các hoạt động QLMT dễ hay khó; Cải thiện CLMT có tốn kém không, có thể làm trong thời gian ngắn được không, có dễ làm không,…?. Qua tìm hiểu kinh nghiệm các quốc gia đi trước có thể thấy: Nhận thức của chúng ta về các vấn đề môi trường cũng chưa thật thấu đáo vì chúng rất khó nhận biết. Ngay vấn đề nguyên nhân biến đổi khí hậu do phát thải quá nhiều KNK mà còn nhiều tranh luận, đến nỗi cô gái Thụy Điển, Greta Thunberg, khi còn đi học phổ thông đã phải lên tiếng đòi các nhà chính trị, kể cả lãnh đạo cao nhất của các nước phải quan tâm ngăn chặn BĐKH, ngăn chặn hậu quả to lớn mà BĐKH có thể gây ra cho hành tinh của chúng ta - Trái Đất. Hay, theo một số bài báo Việt Nam có đưa (chẳng hạn Vietnamplus, ngày 23/9/2025) thì ngay Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng được biết đến với lập trường phản đối tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, cho rằng đây chỉ là một “trò lừa đảo.” Động thái rõ ràng nhất của ông Trump là quyết định rút khỏi thỏa thuận Paris năm 2015.
Ở Việt Nam, vấn đề môi trường được nhắc tới nhiều, đến nỗi trở thành vấn đề cửa miệng, nhưng theo tôi, nội hàm các vấn đề này chưa thật rõ và ít được đề cập một cách chính thống với tính khoa học cao, dựa theo số liệu đo đạc đủ độ tin cậy. Vì vậy, vẫn phải hoàn thiện hệ thống quan trắc, hệ thống xử lý để đánh giá đúng mức CLMT, diễn biến theo thời gian, phân bố không gian của chúng để củng cố quyết tâm tìm giải pháp giải quyết vấn đề suy giảm CLMT.
Vùng Thủ đô cũng phải làm rõ mức độ phát thải, không chỉ ở Hà Nội mà cả ở các tỉnh lân cận, CLMT hiện đang ở mức độ nào, không khí, nước mặt, nước ngầm đã bị ô nhiễm chưa, rác thải đã được xử lý triệt để chưa?,… Đặc biệt, phải ước tính được kinh phí cần có để thực hiện các hoạt động, dự án BVMT mà theo chúng tôi, kinh phí này không hề nhỏ. Một dự án do WB tài trợ đã ước tính kinh phí cần có để cải thiện CLKK Hà Nội đến năm 2030 theo các kịch bảm khác nhau với mức phí hàng năm cỡ vài chục, thậm chí hàng trăm triệu USD.
Tiếp cận phân tích chi phí lợi ích/chi phí hiệu quả. Đây là cách tiếp cận tiên tiến cho phép ước tính đúng, đủ chi phí/kinh phí để thực hiện QLMT nói chung và nâng cao/cải thiện CLMT nói riêng, đồng thời tính được lợi ích của các hoạt động QLMT. Khi đó, có thể so sánh giữa chi phí bỏ ra và lợi ích mang lại để đánh giá hiệu quả các hoạt động QLMT, các dự án BVMT kể cả khi lập kế hoạch và sau khi thực hiện.
Như trên đã phân tích, tiếp cận, sử dụng công cụ kinh tế là một cách tiếp cận thuộc loại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, khi áp dụng giải quyết các vấn đề môi trường thì gặp nhiều khó khăn. Trước hết, các lợi ích, chi phí môi trường do các hoạt động kinh tế gây ra rất khó ước tính vì chúng ít khi được định giá trên thị trường. Ô nhiễm không khí được các nhà khoa học coi là sát thủ thầm lặng, bởi vì nó không gây ra những triệu chứng rõ ràng ngay lập tức, nhưng lại lặng lẽ gây ra nhiều loại bệnh tật như bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi và bệnh phổi mãn tính, đặc biệt ảnh hưởng nặng nề đến người già, phụ nữ có thai, trẻ em và người có bệnh nền về tim mạch và hô hấp. Khi nghiên cứu gánh nặng bệnh tật do ô nhiễm/suy giảm chất lượng không khí các nhà khoa học đã đề xuất cách tính số lượng các ca tử vong sớm và những thiệt hại khi phải chữa trị bệnh tật dài ngày.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) trình bày trong báo cáo "Chi phí sức khỏe của ô nhiễm PM2,5 trong không khí xung quanh-The Global Health Cost of Ambient PM2,5 Air Pollution" [2] thì riêng bụi mịn PM2.5 có thể gây ra nhiều loại bệnh tật và gây mức chi phí rất lớn (xem bảng 1)

Số năm sống chung với khuyết/bệnh tật (YLD) từ PM2.5 môi trường xung quanh năm 2016 [2] của Việt Nam và một số nước xung quanh.
Những con số này cần được các nhà khoa học Việt Nam tính toán, kiểm tra lại và nếu thấy phương pháp tính có đủ độ tin cậy thì có thể áp dụng tính liên tục cho các năm để có thể so sánh, thấy rõ xu thế tăng giảm của chi phí bệnh tật do ONKK gây ra. Hiện đã có một số tính toán cho Việt Nam nhưng chưa được đăng tải rõ ràng trên các tạp chí uy tín nên khó sử dụng trong phân tích vấn đề. Đặc biệt, khi chúng ta triển khai các dự án BVMT thì cách tính toán này có thể giúp đánh giá hiệu quả thu được.
Chẳng hạn, nếu Hà Nội thiết lập vùng phát thải thấp trong Vành đai 1 thì phải đặt vấn đề phân tích chi phí mở rộng (ECBA) để xem những chi phí nào cần phải chi, những lợi ích nào sẽ thu được, trong đó có cả chi phí, lợi ích môi trường và đưa vào tính các giá trị hiện tại ròng (NPV); hệ số hoàn vốn nội tại (IRR); hệ số lợi ích/chi phí (B/C) cho cả khoảng thời gian thực hiện (đủ dài), có tính đến chiết khấu đồng tiền. Các giá trị tính được sẽ giúp xem xét hiệu quả đầu tư cho thiết lập vùng phát thải thấp của Hà Nội. Hay, dự án rửa đường phố Hà Nội cũng cần tính toán CBA/ECBA để làm cơ sở đấu thầu và đánh giá hiệu quả khi thực hiện.
Phân tích chi phí hiệu quả đã được áp dụng rất thành công trong kiểm soát chất thải, chẳng hạn như kiểm soát phát thải SO2 gây mưa axit ở Mỹ, châu Âu và Trung Quốc. Muốn tiếp cận, áp dụng chi phí hiệu quả phải hiểu rõ bản chất, nội hàm và điều kiện áp dụng. Thật ra, không khó để hiểu lý thuyết chi phí hiệu quả kiểm soát phát thải nhưng khi áp dụng thì cần những chính sách, quyết định đôi khi quyết liệt, thậm chí áp đặt trong thời điểm ban đầu.
Trong kinh tế môi trường, lý thuyết hiệu quả chi phí được sử dụng để chứng minh hiệu quả kinh tế của hệ thống hạn ngạch phát thải được cấp cho các khu vực có nhiều nguồn phát thải.
Giả sử chính phủ hay chính quyền địa phương ban hành hệ thống hạn ngạch cho phép tổng lượng thải một chất chất ô nhiễm nào đấy (chẳng hạn PM2.5) ra môi trường là Q đơn vị trong một khu vực (Hà Nội chẳng hạn). Tổng lượng phát thải của tất cả n công ty/cơ sở/đơn vị trong khu vực này lần lượt là q1, q2, ... qn với q1 + q2 + ...+ qn = Q' > Q. Điều đó có nghĩa là tổng lượng chất ô nhiễm cần xử lý là Q' - Q.
Sử dụng lý thuyết hiệu quả chi phí có thể tìm ra lượng chất ô nhiễm mà mỗi công ty cần xử lý lần lượt là q'1, q'2, ... q'n sao cho q'1 + q'2 + ... + q'n = Q' - Q và tổng chi phí xử lý là nhỏ nhất.
Lý thuyết hiệu quả chi phí giúp giảm tổng chi phí giảm phát thải của tất cả các công ty, doanh nghiệp thông qua việc thương lượng giữa các công ty dựa trên chi phí giảm phát thải biên (MAC) của họ. Công ty có chi phí xử lý cao hơn có thể thương lượng để được cấp hạn ngạch phát thải cao hơn. Tất nhiên, các doanh nghiệp sẽ phải tự liên hệ, thương lượng với nhau mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước hoặc chính quyền chỉ ban hành hạn ngạch phát thải tổng thể và tiến hành kiểm soát đảm bảo phát thải tổng thể.
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường hoàn hảo và hệ thống tài chính tốt, việc áp dụng lý thuyết hiệu quả chi phí sẽ dễ dàng hơn so với các quốc gia có nền kinh tế thị trường hạn chế. Rõ ràng, khi áp dụng thì phải có cơ sở dữ liệu phát thải, phải có chi phí xử lý/giảm phát thải biên của các cơ sở và đặc biệt các chủ doanh nghiệp phải biết, hiểu về phương pháp chi phí hiệu quả để cùng nhau thảo luận, thỏa thuận với nhau, tìm ra cách để tổng chi phí xử lý phải chi là nhỏ nhất.
Công cụ kinh tế thì còn nhiều dạng có thể áp dụng để QLMT, BVMT nhưng trong giới hạn bài viết này chỉ nêu tóm tắt về CBA, ECBA và chi phí hiệu quả.
Và, vẫn còn các cách tiếp cận khác cần phân tích để áp dụng trong thực tế nhưng chưa được đề cập trong bài viết này.

Là một người đã có quá trình hơn 20 năm nghiên cứu, giảng dạy về khoa học môi trường, đã thực hiện một số dự án BVMT, tôi nhận ra rằng, các vấn đề môi trường nảy sinh đều có nguyên nhân từ hoạt động của con người. Thật vậy, muốn nâng cao đời sống con người thì cần phát triển, trong đó phát triển kinh tế là chủ đạo. Vấn đề là chọn cách thức, giải pháp phát triển nào để ít tác động bất lợi đến môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, làm suy giảm CLMT. Đây là vấn đề không dễ và phải huy động được rất nhiều nguồn lực, cả thể chế, cả nhân lực, cả kinh phí, công nghệ,… mới có thể giải quyết đạt hiệu quả mong muốn.
Những vấn đề môi trường ở Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng cũng không ngoại lệ, cũng do các hoạt động phát triển để nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân gây ra nên phải nghiên cứu thật rõ các nguyên nhân trực tiếp gây ra những vấn đề này và vận dụng thật tốt kinh nghiệm quốc tế, tri thức khoa học, công cụ kinh tế,… để giải quyết. Tôi cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề chúng ta chưa hiểu đến nơi đến chốn (như đã nêu ở phần trên), do đó còn lúng túng trong tìm kiếm và thực hiện các phương thức giải quyết.
Những năm tới, còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết để giảm phát thải chất ô nhiễm ra môi trường, để nâng cao CLMT nhưng cần một thể chế, một cách tiếp cận hiệu quả hơn mới thu được kết quả mong muốn, tránh được tình trạng: “Ngoài việc phản ánh tình trạng ô nhiễm, người dân cũng đặt câu hỏi về tính hiệu quả khi nhiều biện pháp mới chỉ dừng lại trên giấy” [1]. Những thảo luận nêu trên là những gợi mở, cần đi sâu phân tích thêm và thực hành áp dụng để phần nào giúp tìm kiếm và thực thi những giải pháp khả thi đáp ứng công cuộc BVMT cả hiện tại và trong thời gian dài sau này.
Có lẽ giới khoa học và cộng đồng vẫn mong có những dự án nghiên cứu lớn như kiểm kê chất thải, xây dựng cơ sở dữ liệu phát thải (kể cả chất thải tiền thân của các loại chất ô nhiễm thứ cấp như chất amoniac-NH3 góp phần hình thành PM2,5 thứ cấp chẳng hạn); xây dựng được hệ thống quan trắc, monitoring CLMT đủ để đánh giá đúng nồng độ, hàm lượng và phân bố không gian, diễn biến thời gian của các chất ô nhiễm, tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu CLMT ở các quy mô khác nhau; tìm kiếm/xây dựng/thử nghiệm các mô hình khuếch tán đủ độ tin cậy để xác định lan truyền chất ô nhiễm từ các nguồn thải, đặc biệt là trong không khí và các thủy vực sông, hồ; nghiên cứu làm rõ cơ chế hình thành một số chất ô nhiễm không khí thứ cấp, trong đó có O3 và bụi min PM2,5 và một số dự án khác.
Trong việc xây dựng, áp dụng thể chế cần có quy định bắt buộc chủ các nguồn thải chịu trách nhiệm kiểm kê, báo cáo mức phát thải của mình, chịu trách nhiệm thực thi những quy định của chính quyền liên quan tới kiểm kê và giảm thải chất ô nhiễm ra môi trường. Trong quản lý và thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường cần áp dụng các công cụ/phương pháp kinh tế trong đó có phân tích chi phí-lợi ích mở rộng, phân tích chi phí hiệu quả để ước tính (ngay khi xây dựng dự án) và tính toán các giá trị khi thực hiện dự án, chỉ rõ hiệu quả kinh tế-xã hội-môi trường của chúng.
Cuối cùng, không biết nói gì thêm chỉ chờ mong sự vào cuộc quyết liệt của lãnh đạo, của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng các nhà khoa học, của toàn dân để có những dự án cải thiện được CLMT, để nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Thủ đô, vùng Thủ đô nói riêng được hưởng, được sống trong môi trường chất lượng cao hơn.
GS. Hoàng Xuân Cơ
Trưởng ban Khoa học - Chính sách
Tạp chí điện tử Kinh tế Môi trường
Tài liệu tham khảo
[1]. Nhiều biện pháp khắc phục ô nhiễm chỉ dừng trên giấy khiến người dân băn khoăn
[2]. WB, 2020. The Global Health Cost of Ambient PM2,5 Air Pollution.






















































