Thứ sáu, 22/11/2024 18:06 (GMT+7)
Thứ sáu, 13/11/2020 15:00 (GMT+7)

Báo động an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long

Theo dõi KTMT trên

ĐBSCL từng được đánh giá là khu vực giàu có về tài nguyên nước. Tuy nhiên, từ vùng nông nghiệp trù phú bậc nhất cả nước, ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ mất an ninh lương thực và khó đạt được các mục tiêu phát triển bền vững do suy giảm nguồn nước.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong 5 châu thổ chịu ảnh hưởng nặng nhất từ biến đổi khí hậu, nếu nước biển dâng 0,5m thì sẽ ngập 178 nghìn ha, tương đương 4,5% diện tích của vùng; nếu dâng 1m thì sẽ ngập 1,5 triệu ha, tương đương 38,9% diện tích toàn vùng. Mặt khác, việc phát triển thượng nguồn đã khiến lượng phù sa về ĐBSCL ngày càng ít đi.

Nguồn nước bị suy giảm trầm trọng

ĐBSCL là khu vực giàu có về tài nguyên nước, cả nước mặn lẫn nước ngọt. Tài nguyên nước ở vùng đồng bằng châu thổ này khá đa dạng, gồm nước mặt (sông, hồ, biển), nước ngầm và nước mưa, với trữ lượng rất dồi dào và chất lượng đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên.

Tổng hợp số liệu thống kê từ các địa phương cho thấy, ĐBSCL có trữ lượng nước dưới đất cao bậc nhất nước ta với mức 10-13 tỉ m3/năm, trong đó trữ lượng khai thác cấp A khoảng 110-120 nghìn m3/ngày đêm, cấp B khoảng 300-350 nghìn m3/ngày đêm và cấp C là trên 600 nghìn m3/ngày đêm.

Tài nguyên nước mặt rất phong phú nhờ nguồn nước từ sông Mekong đổ về liên tục, mùa mưa kéo dài 4-6 tháng và mạng lưới sông rạch, kênh đào dày đặc. Các nguồn cung từ sông Mekong và nước mưa theo mùa không chỉ đáp ứng 70-80% nhu cầu sinh hoạt của hơn 10 triệu dân trong vùng mà còn đóng vai trò quyết định trong sản xuất và bảo tồn các hệ sinh thái trọng yếu.

Báo động an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 1
Hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra ngày càng khốc liệt tại ĐBSCL. (Ảnh: Internet)

Tuy nhiên, những năm qua, an ninh nguồn nước tại ĐBSCL ngày càng đáng báo động. Số liệu từ Hội địa chất thủy văn cho thấy mực nước ngầm ở ĐBSCL đã sụt giảm khoảng 15m đến năm 2015 và tiếp tục sụt giảm với tốc độ trung bình 20-40 cm/năm.

Ở nhiều tỉnh ven biển như Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau, nông dân buộc phải khoan giếng mới với độ sâu 150-180 m và đầu tư máy bơm  công suất lớn mới có thể khai thác được nước ngầm.

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu - Trường Đại học Cần Thơ cho biết, ĐBSCL đang rơi vào thế bị động cả trước những hiện tượng thời tiết cực đoan lẫn những tác động mạnh mẽ của việc tích nước ở thượng nguồn. Điều này khiến cho việc đưa ra các giải pháp ứng phó gặp rất nhiều khó khăn. Để chủ động về nguồn nước, việc trữ nước ngọt cho ĐBSCL là điều rất cần thiết.

Phát biểu tại hội thảo tham vấn Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, với chuyên đề “Nước - Định hướng chiến lược cho vùng ĐBSCL”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 12/11, PGS.TS Lê Anh Tuấn - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) cho rằng, nước ở tầng nông đã bị cạn kiệt, ô nhiễm, các tầng nước sâu được khai thác chủ yếu nhưng khó được tái bổ cập bằng nguồn nước mặt dễ dẫn đến rủi ro cạn kiệt.

“Cùng với việc các nước thượng nguồn xây dựng hàng loạt đập thủy điện trên dòng Mekong tạo ra mối lo ngại như suy giảm phù sa, sụt lún đồng bằng, sạt lở bờ sông, bờ biển; gia tăng xâm nhập mặn, hạn hán nghiêm trọng hơn… Những tác động này kéo theo hệ lụy là rối loạn hệ thống sinh thái, phù sa không còn bồi đắp, suy thoái đất, sản xuất nông nghiệp giảm năng suất, ô nhiễm, tù đọng…”, ông Tuấn thông tin.

Không chỉ gặp thách thức về lưu lượng nước, ĐBSCL còn phải đối mặt với tình trạng chất lượng nước ngày càng suy thoái. Theo Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, nguồn nước mặt tại nhiều tỉnh ĐBSCL hiện ô nhiễm nghiêm trọng do sự phát triển nhanh của các dự án công nghiệp và quá trình đô thị hóa.

Có tác động của biến đổi khí hậu và cả con người

Theo các chuyên gia, tình trạng mất an ninh nguồn nước gây ra bởi ba yếu tố trực tiếp gồm: Biến đổi khí hậu, phát triển thủy điện từ thượng nguồn và các nguyên nhân nội tại.

Biến đổi khí hậu đang tạo ra những thay đổi đáng kể về thời tiết và môi trường ở ĐBSCL. Mùa mưa diễn biến không còn theo quy luật, kéo theo sự mất cân đối về phân bố lượng mưa và trữ lượng nước mưa hàng năm. Theo chu kỳ mỗi 4 năm, ảnh hưởng của hiệu ứng El Nino thường xuất hiện khiến phần lớn vùng ĐBSCL chìm trong “cơn khát” do hạn hán kéo dài. Thực tế này khiến cho việc phục hồi các bể nước ngầm trở nên khó khăn.

Trong khi đó, sự gia tăng mực nước biển cho phép nước mặn xâm lấn ngày một vào sâu trong nội địa, nhất là vào thời điểm mùa khô. Kết quả là nguồn nước ngầm và nước mặt ở các sông, hồ sẽ không tránh khỏi bị nhiễm mặn và lan tỏa ra phạm vi xung quanh.

Báo động an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 2
Đập thủy điện Xayaburi trên sông Mekong ở Lào. (Ảnh: Thai PBS World)

Đập thủy điện, các hồ chứa nhân tạo và các dự án chuyển nước trên dòng chính sông Mekong liên tục được triển khai trong hai thập kỷ trở lại đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng mất an ninh nguồn nước ở ĐBSCL. Các dự án này không chỉ khiến lưu lượng nước ở hạ lưu sông Mekong bị biến động, mà đáng lo ngại hơn là chất lượng của nguồn nước cũng không đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo sinh kế, phát triển và bảo tồn sinh thái. Cụ thể, lượng phù sa sông Mekong liên tục bị giữ lại khi đi qua các bậc thang thủy điện. Theo dự báo, nếu cả 9 con đập trên dòng chính thuộc lãnh thổ Lào tiếp tục được triển khai, tổng lượng phù sa vốn có của sông Mekong khi về đến ĐBSCL giảm chỉ còn 5-7%.

Suy giảm an ninh nguồn nước ở ĐBSCL một phần lớn là do chính những yếu tố nội tại gây ra. Điều đó làm nổi bật sự thiếu hụt chiến lược quản lý nguồn nước và quy hoạch công nghiệp thiếu bền vững trong vùng.

Tính đến năm 2018, ĐBSCL có gần 50.000 ha đất nông chuyển đổi thành khoảng 80 khu công nghiệp và hơn 210 điểm công nghiệp. Tuy nhiên, sau một thời gian “trải thảm đỏ” chạy đua công nghiệp hóa, mới chỉ có khoảng 1.000 ha diện tích các khu/điểm công nghiệp được đầu tư thực chất. Ngoài sự lãng phí lớn về tài nguyên đất, việc cho phép đầu tư vào các nghình công nghiệp phát thải ô nhiễm cao như nhiệt điện than, sản xuất - tái chế giấy, vật liệu xây dựng, rượu bia… ở ĐBSCL đã gây nhiều tranh cãi và lo ngại về khả năng ĐBSCL có thể trở thành “điểm nóng môi trường” tiếp theo ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, ô nhiễm trong nông nghiệp cũng đang ở mức báo động. Tác động tiêu cực từ hệ thống đê bao ngăn lũ cùng với nỗ lực tăng sản lượng nông sản đã khiến đất đai bị thoái hóa mau chóng. Để duy trì sản lượng lúa, nông dân bắt đầu lạm dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trên khắp các cánh đồng. Ở những vùng chăn nuôi và nuôi thủy hải sản, ô nhiễm nguồn nước trở nên trầm trọng do chất thải được xả trực tiếp ra các sông rạch, đe dọa các hệ thủy sinh và môi trường nông thôn.

Tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi

Đối với ĐBSCL, nếu như hơn 30 năm trước, vấn đề nước thường chỉ được quan tâm ở góc độ ngập lũ - thiệt hại do lũ, đặc biệt là lũ lớn, thì hơn 10 năm trở lại đây, vấn đề cạn kiệt nguồn nước, hạn hán, xâm nhập mặn và ô nhiễm môi trường diễn biến ngày càng phức tạp, nguy cơ ngày càng cao, tác động đối với kinh tế và đời sống xã hội ngày càng lớn hơn.

Lũ dù lớn cũng có thể ứng phó, nhưng cạn kiệt nếu tiến đến giới hạn cực thấp thì nguy cơ là không thể lường trước được. Do vậy, ngày nay, lũ nhỏ, hạn hán và xâm nhập mặn trở thành mối nguy cao nhất, tiềm tàng nhất đối với sự phát triển và phát triển bền vững của ĐBSCL.

Báo động an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 3
Mưu sinh mùa nước nổi ở ĐBSCL. (Ảnh: Báo Người lao động)

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho rằng, ĐBSCL đang đối mặt với nhiều thách thức về nước. “Cần lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực. Bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển”, ông Phương nhấn mạnh.

Còn theo GS.TS Nguyễn Vũ Việt, để ứng phó với những thách thức trên, ĐBSCL cần tăng cường khả năng phát triển, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn nước ngọt, đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản trị nguồn nước sông Mekong. Thời gian tới, một số giải pháp ngắn hạn cấp thiết cần được thực hiện: Nâng cấp đê vùng lũ phục vụ sản xuất quanh năm cho 3 tỉnh Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An; bổ sung các trạm bơm hỗ trợ cấp nước ngọt cho vùng ngọt hóa ven biển (Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng…); chuyển nước ngọt kết hợp chống ngập triều cường cho vùng trọng điểm tôm phía Nam Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu; bảo vệ bờ biển tại những vùng đang bị xói lở để ngăn chặn tình trạng mất đất đang diễn ra nhanh…

Minh Tuệ

Bạn đang đọc bài viết Báo động an ninh nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tìm giải pháp nâng cao chất lượng quặng Apatit
Hiện nay, chất lượng quặng apatit đang dần suy giảm, thể hiện qua hàm lượng tạp chất oxit kim loại có hại ngày càng tăng cao. Nâng cao chất lượng quặng apatit là giải pháp vô cùng quan trọng đối với ngành phân bón.
Cát biển phù hợp thay thế cát sông khi làm đường
Theo Bộ trưởng Bộ GTVT, việc khai thác cát biển thay cho cát sông sẽ giúp giảm đáng kể áp lực sử dụng cát sông. Về trữ lượng, tính riêng Sóc Trăng, nếu tính đầy đủ thì có khoảng 14 tỷ m3 cát biển, chỉ riêng vùng Sóc Trăng đang cấp phép đã có 145 triệu m3.

Tin mới