'Nâng hạng' chất lượng môi trường không khí: Cần thiết lập dữ liệu chuẩn
Một nguồn dữ liệu đồng bộ, chính xác là yêu cầu tối cần thiết trong việc đánh giá hiện trạng cũng như đề xuất các giải pháp hạn chế ô nhiễm không khí.
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca - Giảng viên cao cấp Đại học TN&MT, kiểm kê nguồn phát thải mới là giải pháp căn cơ và cốt yếu để giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội. Khi đã đánh giá, điều tra được vị trí phát thải, mới sử dụng mô hình số trị đáng tin cậy, có khả năng tính toán lan truyền biến đổi các chất ô nhiễm không khí như khói, bụi, khí độc...
"Phải đánh giá tất cả các nguồn có tiềm năng gây ô nhiễm mới tiến hành bước kiểm định mô hình, sau đó, mới tính toán các kịch bản cải thiện chất lượng không khí", PGS.TS Vũ Thanh Ca khẳng định .
GS. Phạm Duy Hiển, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam từng dẫn chứng, Trung Quốc bị ô nhiễm không khí trầm trọng, nhưng gần đây, tình hình đã cải thiện rõ rệt nhờ chính quyền biết dựa trên những kết quả nghiên cứu khoa học. Hà Nội cũng nên áp dụng các nghiên cứu khoa học vào thực tiễn một cách bài bản.
Hà Nội đang phối hợp với các nhà khoa để nghiên cứu, đánh giá về thực trạng chất lượng không khí Thủ đô. (Ảnh: Hoàng Minh) |
Còn ông Lê Tuấn Định - Phó Giám đốc Sở TN&MT TP.Hà Nội cho biết, Hà Nội đang phối hợp với các đối tác để thực hiện các nghiên cứu chất lượng không khí Thủ đô làm cơ sở để xây dựng Kế hoạch tổng thể về quản lý chất lượng không khí.
Hiện, Hà Nội đang phối hợp với nhiều nhà khoa học và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ, Trung tâm Sống và Học tập vì Môi trường và Cộng đồng, Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam… để nghiên cứu, đánh giá và phân tích khoa học về thực trạng chất lượng không khí Thủ đô. Từ đó, cơ quan quản lý Nhà nước sẽ chắt lọc, đưa ra giải pháp xác định nguồn thải chính xác, tiến đến hoàn thiện Kế hoạch tổng thể cải thiện chất lượng không khí vào cuối năm 2020.
Trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB) đang hỗ trợ Hà Nội nghiên cứu, áp dụng mô hình đánh giá chất lượng không khí GAINS - mô hình nổi tiếng trên thế giới trong quản lý chất lượng không khí đã được áp dụng tại 48 quốc gia châu Âu và một số quốc gia tại châu Á như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia… Mô hình này giúp Nhà nước xác định các chính sách hiệu quả về mặt chi phí và biện pháp kỹ thuật trong quản lý chất lượng không khí.
Sau khi nghiên cứu thành công, mô hình này sẽ được chuyển giao cho Bộ TN&MT và các cơ quan chức năng ở Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, giúp chính quyền xây dựng chính sách về chi phí và cách thức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng không khí.
Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của WB, Công ty Tư vấn RCEE-NIRAS đang xây dựng bộ số liệu đầu vào cho riêng Hà Nội, tập trung vào cập nhật dữ liệu từ các nguồn thải như làng nghề, sinh hoạt dân cư, đốt rơm rạ, giao thông, xây dựng, công nghiệp, năng lượng.
Phúc Khang