Thứ sáu, 07/11/2025 16:56 (GMT+7)
Chủ nhật, 21/09/2025 11:09 (GMT+7)

Công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp

Theo dõi KTMT trên

Trong giai đoạn 2025–2035, Việt Nam đang bước vào chặng đường quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, hiện thực hóa tầm nhìn trở thành quốc gia công nghiệp phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Các nghị quyết quan trọng của Trung ương, như Nghị quyết số 68 về ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới đã đặt nền móng cho chiến lược phát triển hạ tầng, kinh tế vùng và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp (KCN) nổi lên như “cặp song trụ” của tiến trình phát triển. Cảng biển hiện là cửa ngõ giao thương, bảo đảm dòng chảy xuất nhập khẩu, trong khi KCN là hạt nhân của sản xuất, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước (FDI, DDI), đồng thời tạo động lực lan tỏa cho phát triển vùng.

Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam cần phát huy tinh thần “công tư kiến quốc” – một mô hình hợp tác trong đó Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đồng hành, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và sứ mệnh xây dựng đất nước. Đây không chỉ là một phương thức phát triển, mà còn là một triết lý phát triển tất yếu.

Công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp - Ảnh 1

Thực trạng và yêu cầu đặt ra

Năm 2024, tổng sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt khoảng 780 triệu tấn, một con số cho thấy vị thế huyết mạch của ngành cảng biển trong thương mại quốc tế và vai trò trung chuyển của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Một số cảng nước sâu như Lạch Huyện, Cái Mép – Thị Vải, Vân Phong đã từng bước khẳng định vị thế trên bản đồ vận tải biển thế giới, đủ khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn và trở thành điểm trung chuyển khu vực. Tuy nhiên, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở hạ tầng kết nối hậu phương cảng, đặc biệt là đường sắt và hệ thống cao tốc, khiến chi phí logistics duy trì ở mức cao và làm giảm năng lực cạnh tranh.

Ở chiều song song, hệ thống khu công nghiệp (KCN) với gần 420 KCN, trong đó gần 300 KCN đang hoạt động, đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân khoảng 81% – tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước đã đóng vai trò hạt nhân sản xuất và thu hút các doanh nghiệp FDI, DDI. Song, Việt Nam vẫn thiếu vắng những mô hình KCN sinh thái, KCN công nghệ cao, logistics zone hiện đại – vốn là xu thế tất yếu của phát triển xanh và bền vững. Đi kèm với đó, thủ tục hành chính phức tạp, chính sách ưu đãi thiếu nhất quán, chi phí logistics chiếm tới 16–17% GDP (so với mức trung bình khu vực 10–12%) đang là rào cản đáng kể.

Trước thực trạng này, yêu cầu đặt ra là Việt Nam phải xây dựng một mô hình hợp tác công – tư hiệu quả, trong đó Nhà nước tạo hành lang pháp lý và hạ tầng khung, còn doanh nghiệp tư nhân mang lại vốn, công nghệ và mô hình quản trị hiện đại. Chỉ có sự đồng hành chặt chẽ công – tư mới giúp rút ngắn khoảng cách phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp - Ảnh 2
Cảng Ðà Nẵng.

Vai trò của Nhà nước trong công tư kiến quốc

Nhà nước giữ vai trò kiến tạo và dẫn dắt trong tiến trình công tư kiến quốc, đặc biệt ở các lĩnh vực hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp. Trước hết, cần có một chiến lược và quy hoạch tổng thể, trong đó tầm nhìn phát triển cảng biển, logistics và KCN phải được gắn kết với quy hoạch quốc gia cũng như các vùng kinh tế động lực. Việc xác định rõ các hành lang vận tải chiến lược như Lào Cai – Hải Phòng, Vân Phong – Tây Nguyên hay trục Bắc – Nam ven biển không chỉ giúp tối ưu hóa vận tải đa phương thức mà còn tạo khung hạ tầng liên kết vùng, mở rộng không gian phát triển kinh tế.

Song song với đó, Nhà nước cần thực hiện cải cách thể chế và pháp luật theo hướng cắt giảm mạnh thủ tục hành chính, triển khai cơ chế một cửa điện tử, tinh giản quy trình liên quan đến đất đai, xây dựng và môi trường để giảm chi phí thời gian cho doanh nghiệp. Các chính sách ưu đãi ổn định, dài hạn về thuế, thuê đất và tín dụng xanh phải được thiết kế nhất quán, đặc biệt ưu tiên cho các mô hình KCN sinh thái và logistics hub. Đồng thời, việc hoàn thiện Luật PPP và Luật Đầu tư theo hướng minh bạch, công bằng là điều kiện tiên quyết để bảo đảm niềm tin và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cả Nhà nước lẫn nhà đầu tư.

Trong vai trò nhà đầu tư công dẫn dắt, Nhà nước cần tập trung phát triển hạ tầng khung như cao tốc, đường sắt, cảng công cộng, cũng như hạ tầng năng lượng và hạ tầng số, coi đây là nền móng để khu vực tư nhân có thể đầu tư và vận hành hiệu quả. Việc giao đất sạch, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và bảo đảm an sinh cộng đồng cũng phải được coi là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình phát triển hạ tầng.

Cuối cùng, Nhà nước có trách nhiệm duy trì một môi trường kinh doanh ổn định và minh bạch, thông qua bảo đảm an ninh – chính trị – xã hội, giảm chi phí không chính thức, đồng thời cải thiện các chỉ số quan trọng như PCI, PAPI, cũng như nâng cao năng lực tư pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp. Chỉ khi Nhà nước thực sự trở thành “bệ đỡ thể chế”, công tư kiến quốc mới có thể phát huy hiệu quả, tạo động lực cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập và bứt phá trong giai đoạn tới.

Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong công tư kiến quốc

Nếu Nhà nước đóng vai trò hoạch định chiến lược và kiến tạo môi trường, thì doanh nghiệp tư nhân chính là lực lượng tiên phong trực tiếp triển khai và vận hành các dự án hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp. Trước hết, khu vực tư nhân có thể tham gia đầu tư và vận hành hạ tầng thông qua mô hình PPP hoặc vốn tự có, góp phần giảm áp lực ngân sách Nhà nước và tạo ra sự đa dạng trong quản trị. Các doanh nghiệp tiên phong cần hướng tới vận hành KCN theo mô hình hiện đại, tích hợp yếu tố sinh thái – công nghệ cao – logistics, từ đó xây dựng chuỗi cung ứng đồng bộ và thân thiện với môi trường.

Bên cạnh nguồn lực nội tại, doanh nghiệp tư nhân còn có ưu thế trong huy động vốn và chuyển giao công nghệ. Thông qua việc thu hút các quỹ đầu tư quốc tế và hợp tác chiến lược với các tập đoàn toàn cầu, khu vực tư nhân có thể tạo đột phá về vốn, công nghệ và quản trị. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ số như AI, IoT, blockchain trong quản trị logistics, tối ưu hóa vận hành và quản lý phát thải carbon sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.

Trong bối cảnh phát triển bền vững, doanh nghiệp tư nhân có vai trò quan trọng trong thực hiện ESG và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Việc xây dựng mô hình sản xuất xanh, tham gia đăng ký và giao dịch tín chỉ carbon, cùng với việc liên kết các doanh nghiệp trong KCN thành chuỗi giá trị tuần hoàn, sẽ góp phần giảm phát thải, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản.

Không chỉ tập trung vào vốn và công nghệ, doanh nghiệp tư nhân còn phải đảm nhận sứ mệnh phát triển nguồn nhân lực và cộng đồng. Đầu tư vào đào tạo nhân lực chất lượng cao, hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu sẽ tạo nguồn cung lao động phù hợp cho công nghiệp hiện đại. Song song, việc đóng góp nâng cao phúc lợi xã hội, đầu tư cho hạ tầng văn hóa – y tế – giáo dục tại địa phương sẽ củng cố niềm tin của cộng đồng và tạo ra sự phát triển hài hòa giữa doanh nghiệp và xã hội.

Như vậy, với tư duy đổi mới, năng lực huy động vốn và khả năng thích ứng nhanh, doanh nghiệp tư nhân chính là động lực then chốt để công tư kiến quốc trở thành hiện thực, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển công nghiệp xanh, thông minh và bền vững.

Công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp - Ảnh 3
Khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền.

Cơ chế phối hợp công – tư

Để mô hình công tư kiến quốc phát huy hiệu quả, cần có một cơ chế phối hợp minh bạch, chặt chẽ và bền vững giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Trước hết, việc đồng kiến tạo chính sách là điều kiện tiên quyết: doanh nghiệp cần được tham gia ngay từ giai đoạn đầu trong quá trình xây dựng quy hoạch và cơ chế phát triển, qua đó phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và bảo đảm tính khả thi khi triển khai. Tiếp đó, có thể hình thành các hội đồng phát triển vùng hoặc khu kinh tế với sự tham gia của Nhà nước, khu vực tư nhân và các viện nghiên cứu. Đây sẽ là diễn đàn thường trực để trao đổi, đối thoại chính sách và đồng hành trong giám sát thực thi.

Một nguyên tắc quan trọng khác là chia sẻ rủi ro và lợi ích. Nhà nước cần đóng vai trò bảo đảm khung pháp lý ổn định và đầu tư hạ tầng cơ bản, trong khi doanh nghiệp cung cấp nguồn vốn, công nghệ và mô hình quản trị hiện đại. Chỉ khi có sự phân bổ công bằng về trách nhiệm và lợi ích, quan hệ công – tư mới thực sự bền chặt và lâu dài. Cuối cùng, hợp tác công – tư không thể chỉ nhìn ở ngắn hạn, mà phải được đặt trong tầm nhìn dài hạn đến 2030, 2045, với cam kết đồng hành để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

Để hiện thực hóa mô hình công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp, trước hết, Chính phủ cần coi cải cách thể chế, giảm thủ tục hành chính và duy trì chính sách ưu đãi ổn định là “quốc sách” nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch và có tính dự báo cao. Đây sẽ là yếu tố nền tảng để củng cố niềm tin và khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia mạnh mẽ hơn vào các dự án hạ tầng chiến lược. Song song, doanh nghiệp tư nhân phải nâng cao năng lực quản trị, minh bạch tài chính và thực hiện ESG, coi đây là chuẩn mực để đủ sức đồng hành cùng Nhà nước trong những dự án quy mô lớn và mang tầm quốc gia.

Một giải pháp quan trọng khác là xây dựng “Liên minh công – tư phát triển hạ tầng cảng biển và KCN” như một diễn đàn chính thức thường niên. Liên minh này sẽ là nơi tập hợp tiếng nói chung của Nhà nước, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu, từ đó đưa ra sáng kiến chính sách, tháo gỡ vướng mắc và định hình lộ trình phát triển bền vững. Đồng thời, Việt Nam cần tận dụng tối đa cơ hội khi sàn giao dịch carbon được vận hành trong thời gian tới, biến đây thành lợi thế cạnh tranh cho các KCN sinh thái, thúc đẩy chuyển đổi xanh và hội nhập sâu vào thị trường toàn cầu.

Tất cả những giải pháp trên đều hướng tới khẳng định rằng công tư kiến quốc là con đường tất yếu để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển, trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại, thu nhập cao. Trong hành trình đó, Nhà nước và khu vực tư nhân là hai bánh xe song hành, cùng đưa nền kinh tế Việt Nam bứt phá mạnh mẽ, vững vàng trên bản đồ kinh tế thế giới.

GS.TS, Doanh nhân Phạm Hồng Điệp

Bạn đang đọc bài viết Công tư kiến quốc trong phát triển hạ tầng cảng biển và khu công nghiệp. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0937 68 8419 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

"Cộng đồng luôn cần người tiên phong"
Trong giới doanh nhân, bà Nguyễn Thị Phương Thảo được nhắc tới như điển hình của thế hệ doanh nhân trưởng thành từ môi trường xã hội chủ nghĩa. Linh hoạt, cầu tiến và thành đạt.
Giá điện: Cần chia sẻ và công bằng
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) phải gánh thay cho xã hội một khoản chi phí khổng lồ, gần 45 nghìn tỷ đồng, không phải vì yếu kém quản trị, mà vì chủ trương lớn: Ổn định kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc!
80 năm trôi qua, từ ngày lịch sử 2/9/1945 đến hiện tại, Việt Nam khẳng định khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc trong bước tiến phồn vinh của dân tộc.

Tin mới