Cấp bách bảo vệ tài nguyên nước dưới đất
Trước thực trạng sụt lún đất, suy thoái nguồn nước dưới đất xảy ra tại nhiều địa phương, Bộ TN&MT yêu cầu đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên nước ngầm, kịp thời khắc phục, trám lấp các loại giếng khoan không sử dụng, không để ảnh hưởng tới người dân.
Sức ép lớn về suy giảm mực nước và ô nhiễm
Việt Nam hiện có 108 lưu vực sông. Trong đó, có 9 hệ thống sông lớn gồm: Hồng - Thái Bình, Bằng Giang, Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và sông Cửu Long. Tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830 - 840 tỷ m3, trong đó chỉ có gần 40%, tương đương 310 - 320 tỷ m3 nước nội địa, còn lại đến từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện có khoảng trên 20 đơn vị chứa nước chính phân bố trên toàn quốc, các tầng chứa nước có trữ lượng lớn chủ yếu gặp ở hai đồng bằng lớn là Bắc Bộ và Nam Bộ. Tổng trữ lượng tiềm năng nước dưới đất được đánh giá khoảng 63 tỷ m3/năm. Nếu tính cả lượng nước từ bên ngoài chảy vào, Việt Nam có bình quân trên 9.000 m3/người/năm. Tuy nhiên, nếu tính riêng nguồn nước nội địa, trung bình chỉ có khoảng 4.000 m3/người/năm, so với trên thế giới, tổng nguồn cung cấp nước thường xuyên trung bình trên đầu người là 7.400 m3.
Theo kết quả tổng hợp, đánh giá lại trữ lượng nước dưới đất thuộc dự án “Biên hội - Thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc” do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia thực hiện từ năm 2012-2018, Việt Nam có tiềm năng khá lớn về nguồn nước dưới đất với tổng trữ lượng khoảng 189,3 triệu m3/ngày đêm, tập trung ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên. Tổng trữ lượng tiềm năng có thể khai thác trung bình khoảng 61.2 triệu m3/ngày đêm.
Theo thống kê sơ bộ, tổng lượng khai thác nước dưới đất trên toàn quốc ước tính khoảng 10,5 triệu m3/ngày đêm (chiếm khoảng 17.2% trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác). Nguồn nước dưới đất được khai thác để cấp nước cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu cấp nước sinh hoạt (đô thị, nông thôn), sản xuất, ngoài ra còn khai thác để phục vụ cho một số mục đích khác (tưới cà phê, cây công nghiệp ở Tây Nguyên; nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát ở ven biển miền Trung, bán đảo Cà Mau…).
Hiện nước ngầm đang chịu những sức ép lớn về suy giảm mực nước/cạn kiệt tầng chứa nước; gia tăng ô nhiễm, nhiễm mặn các tầng chứa nước và sụt lún, biến dạng bề mặt địa hình.
Việc khai thác quá mức nước dưới đất mà không có sự kiểm soát chặt sẽ gây ra một số tác động như: Làm thấp mực nước dưới đất do việc khai thác nước ngầm tràn lan, không có quy hoạch sẽ làm cho mực nước ngầm tại khu vực cạn kiệt dần và làm thấp mực nước ngầm; ảnh hưởng tới công trình khai thác nước ngầm. Cụ thể, khi một công trình khai thác nước ngầm đi vào hoạt động thì ảnh hưởng của nó sẽ lan rộng khá nhanh tới khu vực xung quanh, tác động tới các công trình khai thác lân cận làm cho mực nước trong các công trình này bị hạ thấp, do vậy sẽ làm tăng chi phí và giảm hiệu suất khai thác của công trình, đồng thời khoảng cách giữa các công trình khai thác càng gần nhau thì mực nước hạ thấp càng nhiều.
Các chuyên gia cũng khẳng định, khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát, không đúng kỹ thuật sẽ tạo cơ hội cho nước bẩn thâm nhập, làm biến đổi chất lượng nguồn nước.
Theo đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng sụt lún đất, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất hiện nay là bởi hầu hết các hoạt động khoan, đào, thí nghiệm trong thăm dò địa chất, khai thác khoáng sản, xây dựng công trình ngầm chưa được các cấp quan tâm, quản lý đúng mức.
Thậm chí, tại một số địa phương xảy ra các hiện tượng trên còn chưa được xử lý, khắc phục kịp thời, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
Đẩy mạnh bảo vệ tài nguyên nước ngầm
Trước thực trạng sụt lún đất, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất xảy ra tại nhiều địa phương, Bộ TN&MT đã có công văn đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên nước ngầm, kịp thời khắc phục, xử lý.
Bộ TN&MT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố khẩn trương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan rà soát, đôn đốc các chủ giếng thực hiện xử lý, trám lấp các loại giếng khoan không sử dụng trên địa bàn theo quy định.
Trọng tâm là rà soát, xử lý các giếng khoan thuộc các dự án nghiên cứu, đánh giá nước dưới đất; dự án nghiên cứu, điều tra, thăm dò địa chất và khoáng sản, khảo sát địa chất công trình đã thực hiện xong trên địa bàn mà không có nhu cầu sử dụng, hư hỏng...
Ngoài ra, các địa phương cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động khoan, đào, thí nghiệm trong thăm dò địa chất, khai thác khoáng sản, xử lý nền móng công trình, xây dựng công trình ngầm, tháo khô mỏ theo quy định, nhằm sớm phát hiện, xử lý, khắc phục kịp thời các sự cố, không để ảnh hưởng tới nhân dân.
Theo lãnh đạo Bộ TN&MT, hiện nay, trên thế giới đã ứng dụng nhiều giải pháp công nghệ nhằm quản trị tài nguyên nước hiệu quả. Trong đó, có hai giải pháp là kỹ thuật và quản lý. Thực chất, việc đưa ra quyết định, phương hướng, chiến lược trong quản trị tài nguyên nước đều được thực hiện trên cơ sở các dữ liệu thu thập được.
Những lợi ích do ứng dụng quản trị nước thông minh không chỉ có lợi ích cho bản thân doanh nghiệp mà còn cho cả cộng đồng. Theo đó, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các chính sách phù hợp, hướng dẫn thực hiện và có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng quản trị nước thông minh, như điều tiết trong khung giá nước, khuyến khích hỗ trợ giá khi nâng cao chất lượng dịch vụ...
Trao đổi với báo chí, TS. Hà Quang Khải, Khoa TN&MT, ĐH Bách khoa TP.HCM, cho biết, giai đoạn năm 2000, nước ngầm khai thác chỉ từ 200.000m3/ngày, nhưng đến khoảng năm 2012, lượng nước khai thác lên 700.000m3/ngày.
“Việc khai thác quá nhiều, tập trung một số khu vực dẫn đến việc hạ thấp mực nước, gây ra tình trạng sụt lún mặt đất, có thể thấy ở các địa phương như huyện Bình Chánh, huyện Cần Giờ, huyện Nhà Bè. Tốc độ sụt lún cứ tiếp diễn dẫn đến việc ngập nước", ông Khải nói.
Ngoài ra, theo ông Khải, nếu khai thác quá nhiều lỗ khoan ở từng hộ gia đình sẽ làm ô nhiễm từ trên bề mặt thấm xuống các tầng nước sâu. Nguồn nước hạ thấp sẽ làm chênh lệch áp lực nên mức độ thấm từ trên mặt đất sẽ nhanh hơn. Không chỉ tác động đến môi trường, cảnh quan, việc sử dụng nước từ khai thác giếng ngầm còn được cảnh báo về các nguy cơ gây ra bệnh cấp tính, mãn tính.
Lan Anh