Thứ sáu, 22/11/2024 16:39 (GMT+7)
Thứ năm, 30/11/2023 09:41 (GMT+7)

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3)

Theo dõi KTMT trên

Với con số 304.000 tỷ đồng bị "rút ruột" từ Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) đủ cho thấy đây là một "đại án" lớn nhất từ trước đến nay.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 1

Bà Trương Mỹ Lan - Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng TMCP Sài Gòn SCB (SCB) có lẽ sẽ là những cái tên đi vào "lịch sử" ngành ngân hàng khi kết luận điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an được công bố. Vụ "đại án" thao túng, chi phối hoạt động ngân hàng được "phanh phui" với quy mô thiệt hại là chưa từng có. Sau những vụ đại án đã được được cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng trước đó như: OceanBank - Hà Văn Thắm, VNCB - Phạm Công Danh, TrustBank - Hứa Thị Phấn, Southern Bank - Trầm Bê, ... với quy mô thiệt hại chỉ tới vài nghìn tỷ, hàng chục nghìn tỷ thì đến vụ án Trương Mỹ Lan - SCB, con số thiệt hại lên tới hàng trăm nghìn tỷ và được so sánh tương đương 6% GDP Việt Nam, lớn hơn tài sản 5 tỷ phú USD Việt Nam cộng lại.

Theo kết luận của Cơ quan Cảnh sát Điều tra, bà Trương Mỹ Lan đã sử dụng quyền hạn để chỉ đạo các đồng phạm hợp thức hồ sơ để chiếm của SCB đoạt số tiền hơn 304 nghìn tỷ đồng, phục vụ cho mục đích cá nhân.

Bà Trương Mỹ Lan bị cáo buộc đã chi phối, lũng đoạn và chỉ đạo hoàn toàn hoạt động của SCB, có vai trò là người tổ chức, chủ mưu, cầm đầu để thực hiện hành vi tham ô tài sản với số tiền đặc biệt lớn.

Hành vi phạm tội của bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm được thực hiện với lỗi "cố ý trực tiếp", có dự mưu từ trước, được chuẩn bị, tổ chức thực hiện hết sức công phu, tỉ mỉ và có "kịch bản". Các bị can đã thao túng, lũng đoạn, bất chấp các quy định pháp luật để thực hiện phạm tội.

"Đây là tổ chức tội phạm có quy mô rất lớn, hoạt động hết sức manh động nhưng cũng rất tinh vi, xảo quyệt, hậu quả mà tổ chức tội phạm này gây ra là đặc biệt lớn về kinh tế, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành ngân hàng, uy tín của Nhà nước trong quản lý kinh tế", kết luận nêu.

Nghiên cứu vụ án cho thấy hàng loạt những thủ đoạn tinh vi, phức tạp mà các đối tượng sử dụng nhằm lách quy định của pháp luật để chiếm đoạt tiền của ngân hàng, đồng thời trốn tránh sự truy vết của cơ quan chức năng.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 2

Theo kết luận điều tra, bà Trương Mỹ Lan là chủ Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, bao gồm một tập hợp các công ty con, công ty liên kết như Công ty Cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, CTCP Tập đoàn Đầu tư Vạn Thịnh Phát, CTCP Tập đoàn Đầu tư An Đông, CTCP Tập đoàn Sàn Gòn Peninsula, CTCP Tập đoàn Quản lý bất động sản Windsor, CTCP Đầu tư Times Square…

Với chủ trương lợi dụng hoạt động của ngân hàng trong việc huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của tập đoàn và các công ty kể trên, bà Trương Mỹ Lan là chủ sở hữu 3 ngân hàng gồm: Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ); Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa; Ngân hàng TMCP Đệ Nhất. Từ đây, bà Lan đã thao túng hoạt động của các ngân hàng này, phục vụ cho các mục đích cá nhân.

Từ tháng 12/2011, bằng hình thức nhờ người đứng tên sở hữu cổ phần, bà Trương Mỹ Lan nắm giữ 81,43% cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ) dưới tên của 32 cổ đông; 98,74% cổ phần của Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa dưới tên của 36 cổ đông và 80,46% cổ phần của Ngân hàng TMCP Đệ Nhất dưới tên của 24 cổ đông.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 3
Bà Trương Mỹ Lan sở hữu tới 91,545% cổ phần SCB.

Sau khi 3 ngân hàng này được hợp nhất vào ngày 10/1/2012, với tên gọi là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (Ngân hàng SCB), bà Trương Mỹ Lan tiếp tục nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu 85,606% cổ phần của SCB. Đồng thời, tiếp tục mua và sử dụng cá nhân đứng tên cổ phần tại Ngân hàng SCB để tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần tại ngân hàng này lên 91,545% vào ngày 1/1/2018.

Tính đến tháng 10/2022, Ngân hàng SCB có vốn điều lệ 15.231,688 tỷ đồng với tổng số 4.129 cổ đông được Ngân hàng Nhà nước công nhận. Trong đó, bà Trương Mỹ Lan đã sở hữu, chi phối gần 91,536% vốn điều lệ, do 27 pháp nhân, cá nhân đứng tên giúp. Trương Mỹ Lan trực tiếp đứng tên sở hữu 4,982% vốn điều lệ.

Với việc sở hữu/nắm quyền chi phối số cổ phần ngân hàng SCB nêu trên, bà Trương Mỹ Lan đã đưa người của mình hoặc sử dụng các cá nhân Lan tin trưởng, thân tín vào các vị trí thuộc Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Giám đốc Chi nhánh lớn, Trưởng ban kiểm soát.

Theo Cơ quan Cảnh sát Điều tra, bà Trương Mỹ Lan mặc dù không nắm giữ chức vụ nào tại Ngân hàng SCB nhưng lại là người có quyền hạn rất lớn tại SCB.  Từ khi sáp nhập (2012) đến nay, Trương Mỹ Lan luôn nắm giữ cổ phần chi phối tại Ngân hàng SCB (từ 85% đến 91,5% tổng số cổ phần của SCB do chính Trương Mỹ Lan, các cá nhân thân tín và pháp nhân của Lan sở hữu đứng tên sở hữu). Số cổ phần còn lại (dưới 10%) do khoảng hơn 4.000 cổ đông nhỏ lẻ nắm giữ.

Bằng cách thâu tóm, nắm giữ cổ phần chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng thông qua các đối tượng chủ chốt tại Ngân hàng SCB, bà Trương Mỹ Lan đã sử dụng ngân hàng SCB với chức năng của một ngân hàng thương mại cổ phần như một công cụ tài chính để huy động tiền gửi của người dân và các tổ chức, huy động vốn từ các nguồn khác theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay, ngân hàng SCB lại chủ yếu phục vụ cho mục đích cá nhân của Trương Mỹ Lan.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 4

Kết quả điều tra xác định, Trương Mỹ Lan đã trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bị can như Nguyễn Phương Hồng, Trương Khánh Hoàng, Trần Thị Mỹ Dung... chỉ đạo các nhân vật tại SCB, Vạn Thịnh Phát cùng đơn vị thẩm định để thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau, bao gồm: tạo lập khách hàng vay vốn khống; thuê, nhờ người đứng tên tài sản; tạo lập hồ sơ vay vốn khống; đưa tài sản đảm bảo được định giá trị.

Tất cả nhằm tạo ra một bộ hồ sơ đúng như quy định để che giấu, đối phó với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, phục vụ mục đích “rút ruột” SCB.

Hầu hết các khoản vay của Trương Mỹ Lan - Tập đoàn Vạn Thịnh Phát được giải ngân trước và thực hiện hợp thức sau. Mặc dù trên hồ sơ thể hiện thời điểm giải ngân cùng thời điểm ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, nhưng thực tế việc rút tiền tại SCB đã được thực hiện trước khi các hợp đồng được hoàn thiện.

Nếu theo quy trình thông thường thì ngân hàng chỉ giải ngân khi đã hoàn thiện các thủ tục pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm nhưng thực tế đối với 1.284 khoản vay của Trương Mỹ Lan và Tập đoàn Vạn Thịnh Phát còn dư nợ, có 684 khoản vay/tổng số dư nợ 382.879 tỷ đồng (gồm 261.588 tỷ đồng nợ gốc, 121.287 tỷ đồng nợ lãi) chưa có thủ tục thế chấp khi giải ngân, số còn lại tài sản bảo đảm chủ yếu là cổ phần, quyền tài sản.

Gần 1300 khoản vay của Trương Mỹ Lan và Vạn Thịnh Phát do 875 khách hàng vay vốn đứng tên, gồm 440 cá nhân, 435 pháp nhân. Tất cả đều do Trương Mỹ Lan chỉ đạo nhóm đối tượng tại Vạn Thịnh Phát thành lập, thuê hoặc nhờ người đứng tên.

Các pháp nhân hầu hết là các pháp nhân “ma", do Trương Mỹ Lan chỉ đạo hai đối tượng chính là Nguyễn Ngọc Dương và Nguyễn Phương Anh, Tổng Giám đốc (TGĐ) và Phó TGĐ Công ty Sài gòn Peninsula thực hiện. Các Công ty này thành lập thực chất không có hoạt động kinh doanh gì, nhưng để tránh sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, Dương và Phương Anh giao cho một số nhân viên kế toán quản lý, báo cáo thuế, nghe điện thoại theo số đã đăng ký, quản lý con dấu như một công ty đang hoạt động.

Đối với cá nhân, Trương Mỹ Lan cũng chỉ đạo nhân viên Vạn Thịnh Phát đứng tên hoặc nhờ người họ đứng tên. Ngoài ra, gián tiếp thông qua 2 đối tượng Dương và Phương Anh chỉ đạo các đối tượng tìm thuê người đứng tên các khoản vay, đứng tên tài sản đảm bảo để đưa vào thế chấp tại ngân hàng.

Với phương thức, thủ đoạn nêu trên, Trương Mỹ Lan và Vạn Thịnh Phát đã thành lập hàng nghìn pháp nhân, sử dụng hàng nghìn cá nhân làm đại diện pháp luật, đứng tên cổ đông, đứng tên ký hồ sơ vay vốn, đứng tên tài sản bảo đảm để hợp thức rút tiền của Ngân hàng SCB.

Theo kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Bộ Công an, quá trình hoạt động, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đã xây dựng hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát với hơn 1.000 doanh nghiệp gồm các công ty con, công ty thành viên trong và ngoài nước, để lấy pháp nhân góp vốn đầu tư vào các dự án, vay vốn ngân hàng, thực hiện việc đảo nợ… với hàng trăm cá nhân được thuê đứng tên đại diện pháp luật hoặc là người có quan hệ họ hàng, cán bộ, công nhân viên.

Thủ đoạn lão luyện ở chỗ, khi “kho” pháp nhân, cá nhân này càng ngày càng phình to vì phải thành lập nhiều pháp nhân, dựng nhiều cá nhân mới để đứng tên khoản vay thì khi kiểm tra thông tin tín dụng trên CIC sẽ không có dư nợ tín dụng lớn. Còn nếu sử dụng cá nhân, pháp nhân cũ, khi thực hiện tra soát trên CIC sẽ thấy đứng tên các khoản vay rất lớn, không đủ điều kiện để lập được hồ sơ vay vốn.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 5

Từ đầu năm 2020, bà Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo thành lập các đơn vị cho vay thuộc SCB chỉ để phục vụ cho các mục đích giải ngân tiền cho nhóm của bà. Những đơn vị này được lãnh đạo Ngân hàng SCB giao giải quyết các khoản vay như các chi nhánh, tuy nhiên các đơn vụ đều có đặc điểm khác biệt so với các chi nhánh ngân hàng SCB là: Trực thuộc quản lý điều hành của Hội sở Ngân hàng SCB; Không có con dấu riêng là sử dụng con dấu của các đơn vị khác khi hoạt động; Không có bộ phận kho quỹ riêng.

Theo kết quả điều tra, từ 1/1/2018 đến 7/10/2022, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo lập khống 916 hồ sơ vay vốn rút tiền chiếm đoạt của Ngân hàng SCB. Đến nay, các khoản vay này còn nợ hơn 545 nghìn tỷ đồng. Trong đó, hơn 415.666 tỷ đồng là dư nợ gốc và 129.372 tỷ đồng dư nợ lãi. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt này đều phục vụ cho mục đích cá nhân của Trương Mỹ Lan.

Kết quả điều tra xác định bản chất việc đưa tài sản bảo đảm vào SCB chỉ là phương thức, thủ đoạn phạm tội. Có nhiều tài sản bảo đảm không có giá trị pháp lý, không đủ điều kiện để làm tài sản thế chấp nhưng vẫn được định giá, nâng khống giá trị, đưa vào thế chấp tại ngân hàng SCB làm phương án vay.

Có 684/1.284 khoản vay chưa có thủ tục thế chấp khi giải ngân. Nhiều khoản vay được giải ngân trước, sau đó mới hợp thức hồ sơ vay và tài sả đảm bảo. Có 201/1.284 khoản vay chưa có phê duyệt cho vay của cấp có thẩm quyền.

Các bị can tại ngân hàng SCB đều đã khai nhận chỉ ký thủ tục hợp thức, không thực hiện thẩm định, đánh giá lại khoản vay theo quy định pháp luật và quy trình của ngân hàng SCB về việc cho vay.

Do vậy, Cơ quan Điều tra cho biết có đủ căn cứ xác định toàn bộ số tiền gốc 415.666 tỷ đồng mà bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm lập hồ sơ vay vốn hợp thức để rút ra khỏi ngân hàng SCB đến nay còn dư nợ không trả được là số tiền mà bà Trương Mỹ Lan đã chiếm đoạt của ngân hàng SCB.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 6

Thực tế cho thấy, vấn đề an ninh an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng không phải đến khi xảy ra vụ Vạn Thịnh Phát, liên quan đến ngân hàng SCB mới được quan tâm, mà vấn đề này đã được cơ quan quản lý đưa ra bàn luận cả thấp kỷ, bởi nó ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế - xã hội.

Những con số siêu khủng về số tiền mà SCB bị chiếm đoạt, số tiền hối lộ quan chức, số bị hại đầu tư mua trái phiếu Vạn Thịnh Phát… đủ cho thấy đây là một "đại án" tham nhũng lớn nhất từ trước đến nay. Từ đây cũng đặt ra tính cấp bách trong quản lý sở hữu chéo ngân hàng cần phải chặt chẽ hơn nữa.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 7

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Công Long (Đoàn đại biểu Đồng Nai, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) nhìn nhận, vụ án đặc biệt nghiêm trọng này có trách nhiệm rất lớn của một số cơ quan chức năng khi thực hiện vai trò quản lý nhà nước đã không làm tròn trách nhiệm, thậm chí một số cán bộ thoái hóa, biến chất khi thực thi công vụ có hành vi tham nhũng.

Theo ông Long, cơ chế kiểm soát ngược đối với những cơ quan, cán bộ thực thi nhiệm vụ hiện rất kém. Từ vụ Vạn Thịnh Phát có thể nhìn ra “kẽ hở” từ quá trình thanh tra nhưng không đi kèm với đối chiếu kết quả thanh tra, giám sát nhưng không có giám sát lại. Đây là nguy cơ rất lớn bởi kết quả thanh tra đúng hay sai có thể sửa đổi bởi chính đoàn thanh tra đó.

Cùng góc nhìn, ông Trịnh Xuân An - đại biểu chuyên trách Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội cho rằng, vụ Vạn Thịnh Phát - SCB là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, đặt ra cho chúng ta nhiều bài học về xây dựng chính sách, đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng đang được bổ sung, sửa đổi; về phòng ngừa, kiểm soát, xử lý từ sớm, từ xa; về kiểm soát quyền lực cán bộ và cuối cùng là bài học cho nhiệm vụ lành mạnh hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Theo ông An, Quốc hội đã quyết định lùi thông qua dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng đến kỳ họp sau, đây là cơ hội để rà soát chỉnh lý hoàn thiện Luật.

“Bên cạnh hoàn thiện pháp lý, chúng ta phải có một hệ thống cảnh báo thực sự khoa học, chuẩn mực, phải thiết kế một mô hình giám sát, kiểm tra đủ mạnh, có thể độc lập hoặc nằm trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước để phòng ngừa từ xa. Đồng thời, cần áp dụng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn thế giới. Đây cũng là cơ hội để chúng ta thanh lọc lại hệ thống các tổ chức tín dụng”, ông An nhấn mạnh.

Hiện nay, dư luận cũng rất quan tâm đối với quy định mới về cấm sở hữu chéo trong Luật Các tổ chức tín dụng mà Quốc hội đang bàn. Nếu không có những quy định chặt chẽ để kịp thời phòng ngừa ngăn chặn, rất dễ xảy ra các vụ tương tự như Vạn Thịnh Phát.

Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3) - Ảnh 8

Nội dung: Hà Lan
Thiết kế:  Hải An

Bạn đang đọc bài viết Rủi ro sở hữu chéo ngành ngân hàng nhìn từ “đại án” SCB – Vạn Thịnh Phát (Bài 3). Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới