Làng chiếu ngoài ốc đảo
Nguồn nguyên liệu ngày càng thu hẹp, thu nhập thấp từ nghề làm chiếu truyền thống khiến làng nghề chiếu cói Bàn Thạch (Quảng Nam) đứng trước nguy cơ mai một.
Làng chiếu mấy trăm đời
Thôn Đông Bình giống như một ốc đảo, và làng chiếu Bàn Thạch vốn dĩ là một làng cổ của xã Duy Vinh (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), nhưng làng Đông Bình lại nằm tách biệt với thế giới bên ngoài, trở thành một “ốc đảo” nằm lơ lửng giữa 3 dòng sông là sông Thu Bồn, sông Ly Ly và sông Trường Giang. Hơn 300 năm qua, làng nghề này đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử nhưng chưa bao giờ họ rời tay dệt chiếu. Với 1.356 người dân sinh sống trên ốc đảo này, thì thời “hoàng kim” có tới hơn 700 người dệt chiếu và làm nghề liên quan tới dệt chiếu.
Người dân thu hoạch cói để làm chiếu. |
Được bao bọc bởi bốn bề là nước của những con sông lớn, chính vì thế dây đay, cói ở đây rất dễ trồng. Thôn Đông Bình được xem là cái nôi của nghề chiếu cói Bàn Thạch vốn nổi tiếng xưa nay. Nghề này cần ít vốn, có thể làm vào những lúc rảnh rỗi. Muốn làm ra những chiếc chiếu thì phải phân công lao động rõ ràng: Đàn ông thì lo việc chặt đay, lác, phơi phóng và tước sợi để làm nguyên liệu; Phụ nữ lo việc nhộm màu, dệt chiếu. Sản phẩm làm ra có thể bỏ cho các đầu mối quen, hoặc mang đi bán quanh cho các vùng lân cận.
Trung bình mỗi chiếc chiếu dệt khoảng 3 giờ là xong và mỗi người có thể dệt 2-3 chiếc/ngày. Nghề này thì được làm theo kiểu cha truyền con nối, truyền từ đời này sang đời khác. Những bãi đay, cói xanh tốt nằm dọc hai bên bờ hữu ngạn con sông Thu Bồn. Đây là nguồn nguyện liệu chính của làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch. Sợi đay đơn sơ nhưng qua bàn tay khéo léo, tài hoa của những người phụ nữ Bàn Thạch đã trở thành những chiếc chiếu trắng, chiếu hoa, chiếu trổ, chiếu bông, chiếu nổi… rực rỡ, mịn màng và bền chắc.
Công đoạn phơi và nhuộm cói cũng vất vả không kém việc thu hoạch cói... |
Làng nghề có lịch sử cũng ngót 450 năm (có từ đầu thế kỷ 17, thời Trịnh Nguyễn phân tranh). Thời phong kiến, sản phẩm làng nghề nổi tiếng gần xa, từng là sản phẩm trao đổi của những thương nhân người Hoa, và cũng từng là cống phẩm cho triều đình, quan lại và quý tộc.
Những người làm chiếu lâu năm trong làng kể lại, trước kia, chiếu Bàn Thạch đã xuất hiện tại các nước Đông Âu và Liên Xô và cho đến nay là hơn 30 quốc gia trên toàn thế giới. Tại những lễ hội lớn như Festival Huế, Ấn tượng Mỹ Sơn hay bội Bà Thu Bồn được tổ chức hàng năm cũng có mặt của chiếu Bàn Thạch ở các gian hàng trưng bày. Và có lẽ, chợ phiên ở đây là nơi duy nhất chỉ bán mỗi chiếu ở Quảng Nam. Chợ phiên họp rất sớm, từ 4-5 giờ sáng bán đủ các loại chiếu, và người mua từ khắp nơi tìm về để chọn chiếu.
Tiếng thơm là vậy, nhưng giờ thì đã lùi về dĩ vãng…
Chòng chành làng chiếu
Trước đây, cuộc sống của bà con nơi đây phụ thuộc vào nghề làm chiếu nhưng vài năm trở lại đây, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, giá thành thấp, không mấy ai mặn mà với nghề truyền thống này.
Trong làng chiếu, số hộ dệt chiếu thủ công đã giảm mạnh, chỉ còn lại một số hộ làm thêm để giữ nghề. |
Chị Trần Thị Bé (39 tuổi, ở tổ 11), gia đình nhiều thế hệ làm chiếu, chỉ tay vào khung đan chiếu, vừa nói vừa thở dài: “Nghề cổ chỉ mang tiếng vậy thôi chứ giờ cả làng còn mấy người làm nữa. Họ đã chuyển đổi nghề nghiệp rồi, bám theo nghề chiếu này khó khăn thực sự. Chưa kể, để có một chiếc chiếu hoàn chỉnh là cả một quá trình. Từ khâu cắt cói đem phơi, nhuộm màu, tuyển chọn kích thước chiếu để cắt kích cỡ, rồi dệt, bắt mép,… đều đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu của người thợ”.
Các cụ cao niên ở làng chiếu Bàn Thạch cho biết nếu như trước đây, mỗi ngày, những hộ làm chiếu như gia đình chị Bé có thể làm từ 2 - 3 đôi chiếu một ngày, kiếm được trên 400.000 đồng. Nay giá bán chiếu thấp, khó tiêu thụ, hai mẹ con chị chỉ dệt một đôi chiếu bán khoảng 120.000 đồng/đôi, kiếm lãi từ 50.000 - 60.000 đồng thì phải chia cho hai người. Và điều lo ngại nữa là nguyên liệu làm chiếu cũng phải mua từ nơi khác.
Gia đình ông Võ Đức Cương là một trong số ít những hộ làm chiếu còn lại ở Đông Bình. |
“Đây là nghề truyền thống làm từ xưa đến nay, mấy năm cũng có đồng ra đồng vào nhưng bây giờ giá rẻ quá, bán được mà không đủ ngày công. Song, nghề truyền thống không thể bỏ được”, chị Bé chia sẻ.
Ông Võ Đức Cương (57 tuổi, trưởng thôn Đông Bình) cũng cùng chung nỗi niềm như chị Bé. Vợ chồng ông Cương cũng không khỏi giấu niềm trăn trở. Nhìn bàn tay thô kệch dính đầy phẩm màu của vợ chồng ông đưa ra đưa vào khung dệt rất nhanh và nhịp nhàng. Chỉ trong 1 tiếng đồng hồ, phần còn lại của chiếc chiếu đã được vợ chồng ông Cương dệt xong. Ông Cương vừa dệt chiếu vừa nói: “Cứ mãi bám cái nghề này thì suốt đời chỉ “đâm lao, xẻ lá”, không khá hơn ai”.
Rất ít người có thể hiểu hết nỗi niềm khốn khổ của những người dân nơi đây phải trải qua. Mùa hè, trời nắng nóng, từ 3 giờ sáng, người già, trẻ nhỏ đã phải thức dậy rất sớm, còng lưng trên những bãi cói để cắt, tỉa, chẻ, rồi đem phơi từ 2-3 nắng. Một cây cói chẻ làm hai rồi phơi. Nếu gia đình nào không có nhân công thì một sào cói có khi phải chẻ đến hàng tháng trời mới xong. Khi trời nắng lớn, để cho thân cói khô đều, người dân phải thường xuyên trở cói.
Nhiều đời qua đi, người dân nơi đây vẫn biết nỗi khó khăn, khổ cực từ nghề chiếu, nhưng vì “định mệnh” hay “duyên kiếp” với truyền thống quê hương nên họ mới quyết tâm theo đuổi để không khỏi thất truyền. Theo ông Võ Đức Cương, sở dĩ làng nghề gặp khó khăn cũng vì một phần vì giao thông cách trở, toàn thôn bị cô lập với ‘thế giới bên ngoài” bởi bốn bề bạt ngàn nước, nhất là vào mùa lũ. Thêm vào đó, đất đai không thể trồng được giống cây nào ngoài cây cói. Vì thế mà có lẽ không ai và không gia đình nào có thể bỏ được nghề. “Biết là khổ, là cực, nhưng đã có duyên với nó thì cố mà giữ lấy, thà có còn hơn không” - ông Cương suy tư.
Do lượng tiêu thụ tại địa phương không cao, nhiều hộ làm chiếu phải mang đi bán rong ở nơi khác. |
Bây giờ, những chiếc chiếu được dệt thủ công không thể nuôi sống người dân. Nhiều người đã chuyển sang làm những công việc khác. Tính đến thời điểm này, địa phương chỉ còn khoảng 45 hộ dân tham gia sản xuất chiếu cói, giảm 60% so với cách đây 2 năm.
Trao đổi với chúng tôi, ông Võ Đức Lắm - Chủ tịch Hội Nông dân xã Duy Vinh cho hay, nghề dệt chiếu cói này rất vất vả nhưng nguồn thu nhập của người dân quá thấp, bình quân mỗi ngày một lao động chỉ thu nhập được nhiều nhất khoảng 50 nghìn đồng. “Sắp tới UBND xã Duy Vinh cùng các ngành liên quan của huyện sẽ tập trung định hướng và hỗ trợ tối đa để các cơ sở dệt chiếu cói sản xuất thêm sản phẩm túi xách, mũ, thảm cói, chiếu gấp… phục vụ khách du lịch. Ngoài ra, xã cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị lữ hành hình thành những tour du lịch trải nghiệm tại làng nghề dệt chiếu để quảng bá sản phẩm”, ông Lắm cho biết.
Ông Lê Trung Cường, Phó Chủ tịch UBND huyện Duy Xuyên cũng bộc bạch rằng, thời điểm này lãnh đạo tỉnh Quảng Nam cũng đã có nhiều chương trình hỗ trợ các làng nghề truyền thống nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Tại làng nghề chiếu Bàn Thạch, chính quyền địa phương cũng đang xây dựng phương án hướng phát triển làng nghề gắn với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Đưa người dân làng nghề vào phục vụ du lịch, có thể sẽ là giải pháp phù hợp để khôi phục, phát triển lại làng nghề.
Bên này là Đông Bình của xã Duy Vinh, tối tối tiếng thoi dệt chiếu lách cách đi vào giấc ngủ sớm. Phía bên kia, cách đó không xa một con sông là TP Hội An tấp nập khách du lịch với điện đèn chói lòa cả mặt sông. Nếu kết nối được với du lịch cộng đồng từ Hội An, chắc chắn làng chiếu giữa lòng ốc đảo này sẽ không mai một. Đời sống người dân sẽ khá hơn.
Tiêu Dao - Huỳnh Sơn