VIASEE góp ý dự thảo luật Địa chất và Khoáng sản
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa nhận được bản góp ý dự thảo lần 2 luật Địa chất và Khoáng sản do Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) chuyển đến.
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa nhận được bản góp ý dự thảo lần 2 luật Địa chất và Khoáng sản do Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) chuyển đến.
Trước đó, vào cuối tháng 10/2023, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) đã có góp ý vào dự thảo lần 2 luật Địa chất và Khoáng sản. Tạp chí Kinh tế Môi trường xin đăng tải toàn văn nội dung này.
Việc ra đời Luật mới “Địa chất và Khoáng sản” thay cho Luật Khoáng sản là một bước tiến vì khoáng sản là đối tượng chính của hoạt động địa chất. Trong phần góp ý này, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (thuộc Liên Hiệp các hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam- VUSTA) không muốn nói về các ưu điểm của Luật đang được soạn thảo mà chỉ muốn góp ý về một số điểm chưa rõ hoặc chưa chính xác trong Dự thảo.
Về điều 3 – Giải thích từ ngữ
- Khoản 1 có ghi tài nguyên địa chất có ‘tài nguyên địa chất tái tạo’.
- Khoản 2 có định nghĩa tài nguyên địa chất tái tạo bao gồm; tài nguyên gió, sóng, thủy triều và bức xạ mặt trời. Theo chúng tôi, việc đưa ra khái niệm này vừa không đủ và không chính xác vì: các loại tài nguyên đó không trực tiếp sinh ra từ các quá trình địa chất của Trái đất, và thiếu vì nếu coi nó có liên quan đến quá trình địa chất, thì nhiều tài nguyên có liên quan trực tiếp hơn như sinh vật và nước lại không được tính. Hơn nữa các điều khoản khác của Luật này hầu như không đề cập hay liên quan đến các dạng tài nguyên này.
- Khoản 10 cũng cần điều chỉnh lại cho chính xác vì nhiều loại khoáng vật, khoáng chất hiện nay chưa xem là khoáng sản, nhưng trong tương lại sẽ là khoáng sản. Còn gọi tất cả khoáng vật, khoáng chất có ích (nhưng chỉ trong tương lai có công nghệ khả thi để biến nó thành có ích) thì lại quá ôm đồm. Theo chúng tôi, nên thêm vào cụm từ ‘vào thời điểm hiện tại’ vào sau cụm từ ‘khoáng chất có ích’ mới chính xác. Ai cũng nhớ nguyên tố U vào thời điểm bà Mary Curi tìm nguyên tố Ra không được xem là khoáng sản, còn bây giờ là khoáng sản quan trọng; hoặc các nguyên tố rất có giá trị trong nhiều loại đất đá nhưng chưa có công nghệ khai thác có hiệu quả thì vẫn không thể xem là khoáng sản được.
- Khoản 16: Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm ‘thu hồi khoáng sản’ … nên sửa lại cho chính xác vì: thuật ngữ ‘thu hồi’ trong tiếng Việt là hành động thu về, thu lại cái đã được đưa ra, đã cấp phát, đã lưu hành hay đã mất vào tay người khác. Nên sửa khoản 16 như sau: “Khai thác khoáng sản là hoạt động lấy ra / lấy được từ mỏ / điểm quặng các khoáng vật và khoáng chất có ích / khoáng sản, bao gồm …”.
- Khoản 17: Khoáng sản độc hại là khoáng sản chứa một trong các nguyên tố U, Th, Hg, As, Pb, nhóm khoáng vật Asbet .. là chưa chuẩn xác vì sự độc hại của các nguyên tố hóa học chúng ta đã biết hết đâu ?. Ví dụ ai dám nói Cs, Ra ít độc hại hơn các nguyên tố và thành phần đã liệt kê trên. Theo chúng tôi, Khoản 17 nên ghi: “Khoáng sản độc hại là khoáng sản chứa các nguyên tố có tính phóng xạ cao, có độc tính cho môi trường và con người như ‘U, Th, Hg, As, Pb, nhóm khoáng vật Asbet’ vượt quá các quy định an toàn môi trường Việt Nam”.
Về điều 5.
- Tiểu mục d) khoản 2 nên thay từ ‘thu hồi’ bằng từ ‘lấy được’.
Về điều 7.
-Phân bố các nguyên tố hóa học trong đá khá phức tạp, hầu hết các đá đều chứa một lượng các nguyên tố quý hiếm nếu nói không chứa thì không chính xác! Vậy cần phải có chỉ tiêu định lượng, căn cứ vào tiêu chuẩn quốc gia mới tránh được các tranh chấp trong quá trình triển khai thực tế Luật. Ví dụ:
- Khoản 4. Nên viết: Cuội, sỏi, sạn, cát không chứa hoặc có chứa hàm lượng thấp hơn (1/10) tiêu chuẩn quốc gia về khoáng sản quý (vàng, bạch kim, bạc, đá quý, đá bản quý, v.v.); đá ong không chứa hoặc có chứa hàm lượng kim loại tự sinh và khoáng vật kim loại thấp hơn (1/10) tiêu chuẩn quốc gia quặng tượng ứng.
- Các khoản 5, 6, 7 cũng nên rà soát về tiêu chuẩn định lượng và khả năng công nghệ để đưa khoáng sản đó vào khai thác và sử dụng.
Về điều 48.
-Trong điều này và các điều tiếp theo của chương VI (các điều khoản 49, 50) cần đưa tham chiếu đối với hoạt động bảo vệ môi trường theo Luật BVMT 2020 thì nó mới phù hợp và tránh sự trùng lập của văn bản Luật Địa chất và Khoáng sản với Luật BVMT đã ban hành còn hiệu lực.
Về mục 4 Chương VIII. Đóng cửa mỏ
- Các điều 95, 96, 97, 98, 99 có liên quan đến Luật BVMT 2020 nên cần tham chiếu với Luật BVMT 2020 đang còn hiệu lực để tránh sự bất cập giữa Luật Địa chất và Khoáng sản với Luật BVMT 2020 và Luật Tài nguyên nước đang sửa đổi.
Về điều 112. Trữ lượng để tính cấp quyền khai thác khoáng sản:
- Khoản 1. Nên lấy trữ lượng công nghiệp để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Nếu lấy trữ lượng địa chất thì không hợp lý vì trữ lượng công nghiệp (thường chỉ bằng 50-60% trữ lượng địa chất) và trong thực tế doanh nghiệp khai thác khoáng sản chỉ quan tâm đến trữ lượng công nghiệp (trữ lượng có thể khai thác quy mô công nghiệp). Hơn nữa nếu có thể thì quy định trữ lượng công nghiệp ở cấp thăm dò nào.
- Khoản 2. Không nên tính tiền cấp quyền khai thác theo sản lượng khai thác mà cần tính theo trữ lượng đã được khai thác để tránh việc doanh nghiệp chỉ tập trung vào chỗ dễ khai thác hay quặng giầu mà khai thác có lợi nhuận cao, bỏ lại trong lòng đất tài nguyên khoáng sản về sau không khai thác được.
Về điều 113.
- Khoản 1. Ghi rõ tên trữ lượng địa chất hay trữ lượng công nghiêp.
- Khoản 2. Cần cụ thể hóa giá tính tiền cấp quyền khai thác được tính bằng bao nhiêu % của giá tính thuế tài nguyên, tránh ban hành Nghị định hay Thông tư thêm, cũng như tránh sự vận dụng tùy tiện của cơ quan quản lý khi cấp quyền khai thác. Cũng như bỏ khoản 3 sau khi có số định lượng quy định này.
Một số ý kiến khác cụ thể khác về tài chính trong khai thác khoáng sản:
- Cấp quyền khai thác khoáng sản nên căn cứ vào trữ lượng công nghiệp của mỏ khi đã có số liệu thăm dò và tính toán trữ lượng của cơ quan chức năng.
- Thuế tài nguyên khoáng sản không nên tính bằng sản lượng khoáng sản đầu ra nhân với giá tài nguyên và thuế suất; làm như vậy sẽ dẫn đến khai thác không triệt để khoáng sản (hàm lượng chưa cao hay vị trí khó khai thác dưới lòng đất) mà phải tính bằng trữ lượng công nghiệp đã được doanh nghiệp khai thác.
- Phí bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản phải tính trên cơ sở các chi phí ngăn ngừa tác động tiêu cực của hoạt động khai thác tới môi trường không khí, nước và đất cụ thể ! Không nên tính theo sản lượng khoáng sản khai thác của doanh nghiệp.
- Phí đóng cửa mỏ cũng cần căn cứ vào các chi phí cụ thể đã đặt ra trong đề án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ của danh nghiệp khi cấp quyền khai thác khoáng sản và phê duyệt đề án khai thác mỏ.
Trên đây là tóm tắt các góp ý của Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam về một số nội dung của Bản Dự thảo lần 2 của Luật Địa chất và Khoáng sản. Đồng thời, cũng trong thời gian qua, Tạp chí Kinh tế Môi trường (là cơ quan ngôn luận của Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam) đã đăng tải nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học khi bàn tới một góc cạnh của dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản. Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam xin dẫn lại để làm cơ sở, căn cứ cho Ban soạn thảo có thêm thông tin để tham khảo và chỉnh sửa khi thấy phù hợp:
Từ giữa năm 2017, UBND tỉnh Quảng Ninh đã thống nhất với Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) về phương án sử dụng đất đá tại các bãi thải mỏ than để san lấp mặt bằng các dự án.
Theo đó, phương án này được cho là phù hợp với bối cảnh các bãi đang chất lên thành những ngọn núi khổng lồ. Đồng thời, cũng để đảm bảo môi trường, tránh việc phải khai thác đất, đá san lấp dự án mới. Bởi những năm qua, để phục vụ xây dựng dự án, tỉnh này đã phải sử dụng hàng trăm triệu tấn đất, đá từ núi, đồi tự nhiên để san lấp mặt bằng. Tính toán trong Phương án Khai thác, sử dụng đất đá thải mỏ than làm vật liệu san lấp mặt bằng các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh kèm theo công văn 1400 ngày 11/3/2021 của UBND tỉnh Quảng Ninh gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, giai đoạn từ năm 2021 đến 2025, nhu cầu vật liệu san lấp cho các dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là hơn 700 triệu m3.Cũng theo số liệu trong công văn trên, trung bình mỗi năm, các mỏ than ở Quảng Ninh phát sinh trên 150 triệu m3 đất đá thải mỏ. Vẫn còn hơn 1 tỷ m3 đất đá đổ thải nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại tỉnh Quảng Ninh. Đây là hậu quả của việc khai thác than lộ thiên suốt nhiều năm qua. Đến nay, Bộ TN&MT cho phép khai thác, thu hồi đất đá thải mỏ tại 4 dự án với khối lượng khoảng 12,4 triệu m3, gồm Bãi thải vỉa 14 cánh tây của Công ty CP Than Núi Béo (cho dự án đường bao biển Hạ Long – Cẩm Phả); Bãi thải Tây Khe Sim – Tây Lộ Trí của Tổng Công ty Đông Bắc (cho dự án khu du lịch, dịch vụ Bái Tử Long); Bãi thải Suối Lại của TKV (cho các dự án công trình dân dụng và đô thị tại TP. Hạ Long); Bãi thải Nam Tràng Bạch của Tổng Công ty Đông Bắc (cho dự án đường ven sông đoạn Uông Bí – Đông Triều). Và đang có một số đơn vị gửi công văn lên bộ TN&MT xin sử dụng đất đá thải mỏ phục vụ việc san lấp dự án.
Tiếp đó, cuối tháng 8/2023, các nhà khoa học thuộc Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam đã có chuyến khảo sát độc lập, lấy mẫu đất đá cũng như mẫu nước tại một số vị trí sử dụng đất đá thải mỏ. Các mẫu đất đá thải được lấy tại các vị trí như KĐT Ao Tiên (Vân Đồn), Cụm Công nghiệp Cẩm Thịnh (Cẩm Phả), KĐT Dragon City (Cẩm Phả), KĐT Cao Xanh - Hà Khánh (Hạ Long), Dự án đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, một số mẫu tại các bãi thải mỏ: Hà Lầm; Cao Sơn; Đông Dương; Vàng Danh; Hòn Gai; Uông Bí cho thấy có Hàm lượng % than trong mẫu đã lấy. Có những mẫu Hàm lượng % than lên đến 17.3%. Theo phân tích, tất cả các mẫu phân tích lấy từ bãi thải đã đưa san lấp và đất đá thải mỏ khác đều chứa than. Có 2 mẫu đất đá thải san lấp chứa hàm lượng than rất cao (15,2 và 17,3 %). Các mẫu đất đá thải Hà Lầm và Vàng Danh cần tuyển để thu hồi than chứa trong đất đá thải > 5%. Các mẫu đất đá thải của các mỏ Cao Sơn và Uông Bí chứa lượng than có thể gây ra ô nhiễm biển vùng đổ đất đá thải lấn biển.
Các nhà khoa học của Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam đưa ra lưu ý: Cần có quy trình phân loại đất đá thải (tách ra khỏi bước nghiền sàng) trước khi nghiền sàng (tránh tạo ra lỗ hổng chứa nước ô nhiễm trong nền đất) và tạo ra nguy cơ gây thương tích cho người ở các bãi tắm. Ô nhiễm than và kim loại nặng trong trầm tích có nguồn gốc từ nước thải chứa than từ các mỏ và dây truyền tuyển than chưa xử lý, đất đá thải đổ san lấp mặt bằng, cũng như hoạt động vận chuyển than trên biển. Kết quả mẫu phân tích mẫu nước được lấy tại các vị trí như KĐT Dragon City (Cẩm Phả), KĐT Cao Xanh - Hà Khánh (Hạ Long) cho thấy Cả hai mẫu nước đều bị ô nhiễm theo cột B, thậm chí mẫu lấy từ KĐT Dragon City (Cẩm Phả) ra kết quả theo cột D - độ pH 8,8 (theo QCVN 08:2023/BTNMT). Có nhiều kết quả phân tích hàm lượng cao nhưng không quy định trong QCVN.
Cần xem lại việc sử dụng đất đá thải mỏ là khoáng sản đi kèm trong quá trình khai thác than để sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả về kinh tế nhưng phải bảo vệ môi trường. Vì như đã phân tích độc lập ở trên, trong đất đá thải mỏ tại một số vị trí lấy mẫu đã đổ thải san lấp các dự án, khu đô thị vẫn có chứa rất nhiều than cục, với % hàm lượng than đến 17%. Nếu không được tận thu thì đây sẽ là một sự lãng phí vô cùng lớn đối với tài nguyên khoáng sản nói chung và tài nguyên than nói riêng. Và các chất trong đất đá thải mỏ còn gây tác động tới môi trường biển, nhất là khu vực Quảng Ninh có 2 Vịnh được Quốc tế công nhận và đánh giá cao. (Khoản 2 Điều 4 về Chính sách của Nhà nước về địa chất, khoáng sản trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản nêu: Nhà nước bảo đảm tài nguyên địa chất, khoáng sản được bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả).Điểm d khoản 2 Điều 5 về Hoạt động khoáng sản phải bảo đảm các nguyên tắc trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản nêu: Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản).
1-Ý kiến của GS.TS Hoàng Xuân Cơ, Tổng thư ký Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quan trắc và mô hình hóa môi trường (ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội):
Theo chúng tôi tìm hiểu thì: Đất, đá làm vật liệu san lấp là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường khi đáp ứng đủ quy định tại Khoản 1 Điều 64 Luật khoáng sản (theo Khoản 2 Điều 2 Thông tư 01/2016/TT-BTNMT). Một số loại đất đá (đúng hơn là khoáng sản) có thể làm vật liệu san nền được quy định rất rõ trong Luật Đất đai năm 2010 nên khi cho phép sử dụng khai thác đất đá làm vật liệu san nền thì phải làm rõ chất lượng “khoáng sản” này có phù hợp với quy định pháp luật không. Mặc dù không có tài liệu về chất lượng đất đá đã và đang được khai thác làm vật liệu san lấp ở Quảng Ninh nhưng chúng tôi hy vọng chúng đảm bảo các quy định pháp luật. Chắc chắn là việc khai thác đất đá thải mỏ từ khai thác, chế biến than cũng phải thực hiện đánh giá chất lượng theo quy định trong Luật Đất đai. Theo đó, phải chú ý đến khả năng đất đá thải này có chứa khoáng vật có giá trị kinh tế cao hay không.
Một điểm khác phải làm rõ là các núi đất đá thải hiện thuộc quản lý của ai, của UBND tỉnh Quảng Ninh hay vẫn thuộc quản lý của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV). Nếu TKV đã bàn giao các núi thải này cho UBND tỉnh thì quyền cho phép khai thác sẽ thuộc UBND tỉnh, còn khi chưa bàn giao thì, theo chúng tôi hiểu, TKV có quyền định đoạt, thậm chí bán chất thải của mình. Nhưng dù ai ra quyết định thì vẫn phải khảo sát, đánh giá để chất lượng đất đá thải của khai thác, chế biến than để chứng minh chúng đáp ứng quy định pháp luật.
Bây giờ chúng ta giả thiết chất lượng khoáng sản/đất đá thải từ khai thác than đủ để làm vật liệu san lấp theo quy định pháp luật và đang được dùng để san lấp, kể cả lấn biển ở Quảng Ninh. Đối với rất nhiều dự án có san lấp lớn thì phải có đánh giá tác động môi trường nên các dự án ở Quảng Ninh cũng phải tiến hành lập ĐTM, trong đó có phần đánh giá tác động của giai đoạn xây dựng cơ sở ban đầu, xây dựng, san lấp, chuẩn bị mặt bằng. Theo nhiều chuyên gia, tất cả các dự án lấn biển cần phải làm báo cáo đánh giá tác động môi trường. Bởi, hoạt động lấn biển, đổ đất đá xuống biển sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng nước ven bờ, hệ sinh thái biển, dễ gây ra hiện tượng xói lở, bồi đắp xung quanh,…
Như chúng ta đều biết, khai thác, chế biến than trước đây có thể coi là kinh tế tuyến tính thuần, nghĩa là: Đi từ khai thác tài nguyên, chế biến thành sản phẩm (than) đem tiêu thụ tạo ra phúc lợi xã hội (có thể đo bằng GDP/RGDP được tạo ra). Tuy nhiên, hoạt động này thải nhiều loại chất thải như nước thải, khí thải (CH4 chẳng hạn), bụi và đất đá cùng chất thải rắn khác. Sau khi khai thác xong, doanh nghiệp bàn giao mặt bằng cùng các bãi thải cho địa phương thì có thể coi như hoàn thành công đoạn của hoạt động kinh tế tuyến tính trong khai thác, chế biến than.
Tuy nhiên, một hoạt động kinh tế khác đó là san lấp, chuẩn bị mặt bằng cho phát triển kinh tế cũng sẽ được coi là kinh tế tuyến tính khi đất đá lấy từ tự nhiên, được khai thác chuyên chở đến địa bàn san lấp, rồi xây dựng cơ sở sản xuất, khu dân cư trên đó nhằm tạo ra phúc lợi xã hội, tạo ra GDP/RGDP. Nếu vật liệu san lấp được lấy từ đất đá thải từ hoạt động kinh tế khai thác, chế biến than thì đây được coi là sử dụng chất thải, biến chúng làm đầu vào cho hoạt động kinh tế san lấp mặt bằng và như vậy được coi là có yếu tố kinh tế tuần hoàn trong đó.Kinh tế tuần hoàn ở đây thể hiện mối quan hệ giữa 2 hoạt động kinh tế mà hoạt động này sử dụng chất thải của hoạt động kia làm đầu vào cho các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hiệu quả của kinh tế tuần hoàn trong trường hợp này sẽ được nâng cao nếu như tích hợp được cả hai hoạt động này trong một số công đoạn. Chẳng hạn, đất đá thải từ khai thác, chế biến than có thể chở thẳng ra nơi chôn lấp, không qua lưu giữ ở các bãi thải như trước đây. Tất nhiên, việc tích hợp này không dễ nhưng nếu có cơ chế tốt thì vẫn thực hiện được.
Việc sử dụng đất đá thải từ khai thác, chế biến than làm vật liệu san lấp mặt bằng dạng lấn biển cần chú ý thêm đến khả năng ảnh hưởng đến chất lượng nước và hệ sinh thái ven bờ. Đã có một số nghiên cứu chỉ ra nước thải mỏ khai thác than đến chất lượng nước và hệ sinh thái ven biển gần khu vực xả thải nên việc ngấm chất thải từ vật liệu san lấp sử dụng đất đá thải từ khai thác, chế biến than vẫn có thể xảy ra.Theo quan sát của nhiều người, đã có dấu hiệu của việc tác động như đất đá thải mỏ được sử dụng để san lấp nền dự án ở một số địa phương như Vân Đồn, Cẩm Phả, Hạ Long và một số tuyến đường như đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, cao tốc Hạ Long - Móng Cái…Đây cũng là vấn đề cần được xem xét nghiêm túc.
Từ những gì phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng: Khi quyết định cho phép sử dụng đất đá thải từ hoạt động khai thác, chế biến than làm vật liệu san nền, lấn biển cần tổ chức khảo sát, nghiên cứu làm rõ hai vấn đề dưới đây.
1.Khảo sát chất lượng đất đá thải bỏ từ hoạt động khai thác, chế biến than để tận dụng các tài nguyên (nếu chúng tồn tại trong đó) và xem chúng có đủ tiêu chuẩn làm khoáng sản san nền như quy định trong Luật Đất đai không. Có trong tay kết quả nghiên cứu sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền yên tâm khi cấp phép khai thác loại tài nguyên này.
2.Khảo sát chất lượng nước và hệ sinh thái ven bờ gần các khu lấn biển để đánh giá khả năng tác động đến hai đối tượng này. Nếu phát hiện thấy có tác động tiêu cực thì phải có phương pháp giảm thiểu thích hợp để chất lượng nước, chất lượng hệ sinh thái ven bờ và xa hơn là chất lượng hải sản gần vùng lấn biển được duy trì và cải thiện.
2- Ý kiến của TS. Đỗ Thanh Bái, Chủ tịch Hội đồng trách nhiệm xã hội tự nguyện của các doanh nghiệp Hóa chất Việt Nam (VRCC):
Việc người dân tỉnh Quảng Ninh lo lắng đến vấn đề môi trường là điều dễ hiểu. Bởi lẽ, khi khai thác than (bao gồm khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò) sẽ tạo ra một khối lượng chất thải rắn nhất định. Theo TS. Đỗ Thanh Bái, chất thải mỏ than cũng chia làm nhiều loại, thứ nhất là bùn thải trong các hồ lắng.Thứ hai là chất thải bóc ra từ lớp đất đá phủ trên bề mặt các vỉa than.Thứ ba là chất thải tại các nhà máy điện than, trong quá trình tuyển than sẽ phát sinh sỉ tuyển.
Tại Việt Nam, các mỏ than thường chứa 6 - 8 kim loại nặng (chì, kẽm, đồng...), những kim loại nặng này có thể ảnh hưởng đến môi trường đất, nước. Hàm lượng kim loại nặng phụ thuộc rất nhiều vào khu vực khai thác, song không thể quy chụp tất cả các chất thải rắn từ khai thác than đều chứa kim loại nặng.Trong quá trình khai thác than nhất là khai thác than hầm lò sẽ phát sinh nước mỏ than. Trong than bao giờ cũng chứa lưu huỳnh, khi gặp nước sẽ chuyển thành acid. Và acid có khả năng hòa tan một số kim loại nặng hoặc một số chất hữu cơ đặc biệt. Nếu chất thải mỏ có chứa nước mỏ thì rất nguy hiểm, tuyệt đối không được sử dụng khi chưa qua xử lý và chứng minh là an toàn.
Trách nhiệm của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương là phải lấy mẫu đất đá thải mỏ đi phân tích, chứng minh xem trong đó có những chất gì? Những chất đó có chất nào gây ô nhiễm môi trường hay không? Hàm lượng bao nhiêu? Có ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân hay không? Người dân có quyền bày tỏ sự lo lắng còn trách nhiệm của cơ quan quản lý và chủ đầu tư là công khai thông tin, số liệu phân tích, để chứng minh cho người dân thấy việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp là an toàn với môi trường và hệ sinh thái", ông Bái lưu ý. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch VRCC, ngoài việc phân tích mẫu đất đá thải mỏ, tỉnh Quảng Ninh cần phải kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ lại quá trình sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp trên địa bàn trong thời gian qua để có một cái nhìn tổng quan, tránh những hệ lụy tiêu cực trong tương lai.
Khoản 4 Điều 6 Quyền lợi của địa phương và cộng đồng dân cư nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản được khai thác:
- Cộng đồng dân cư nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản thông qua tổ chức đại diện của mình có quyền:
- a) Tham gia góp ý về biện pháp bảo đảm an toàn lao động, an ninh trật tự và bảo vệ môi trường;
- b) Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về khoáng sản xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản nếu phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm;
- c) Yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về địa chất, khoáng sản cung cấp hòm thư điện tử, số điện thoại hoặc địa chỉ tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị trong việc bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản và góp ý, đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về địa chất và khoáng sản.
Vậy, trong thực tiễn, việc quyền lợi của địa phương và cộng đồng dân cư nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản được khai thác, ở đây là người dân các vùng lấn biển tại các địa phương như Vân Đồn, Hạ Long, Cẩm Phả, Đông Triều…tại Tỉnh Quảng Ninh có được tham gia góp ý kiến hay không.Việc quy định điều khoản này trong dự thảo luật sẽ được thực hiện giám sát và cụ thể hóa ở phần nào trong các hồ sơ thủ tục cấp phép mỏ cũng cần được Ban soạn thảo cụ thể hóa và nêu rõ trong các Nghị định kèm theo để nâng cao vai trò, tiếng nói của quần chúng nhân dân nói chung và người dân vùng bị- chịu tác động của dự án/việc khai thác khoáng sản nói chung.
3-Ý kiến của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Chủ tịch Hội Bảo vệ môi trường biển:
Sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp nền tác động thứ nhất quan sát được ngay bằng mắt thường là bụi bay ra từ đất đá thải mỏ. Những tác động lớn nhất xảy ra khi lượng than tồn dư bị phân hủy do nước mưa.
Bản thân than là một loại trầm tích bị biến chất hình thành trong điều kiện đầm lầy yếm khí. Nếu như trong một môi trường nhiều mưa gió, bị lộ thiên khi gặp nước mưa sẽ xảy ra phản ứng hóa học. Khi đó, các khoáng vật gốc lưu huỳnh và sắt như Pirit,…, khi khai thác sẽ bị tách ra khỏi than, bị rửa lũa,…, tạo thành nước thải mỏ chứa các chất gốc lưu huỳnh và lưu huỳnh tự sinh.Nguồn nước này giữ lâu trong đất đá thải mỏ tự bản thân độ pH trong nước cũng bị giảm do axit hóa. Thậm chí, nước thải này độ pH xuống thấp bằng 4, trong khi độ pH nước biển là kiềm yếu (pH = 8 - 8,3). Nếu nguồn nước này bị rò rỉ ra biển, sẽ gây axit hóa vùng biển. Và như vậy, điều kiện sinh thái khu biển sẽ thay đổi, toàn bộ thế giới sinh vật biển không sống được.
Các sinh vật biển, 90% các loài có vỏ và xương bằng vôi (canxi carbonat- CaCO3). Khi nước biển từ kiềm tính chuyển sang bị nhiễm axit, thì các sinh vật biển này sẽ bị một chứng bệnh như người già gọi là loãng xương. Sinh vật nhiễm phải nước biển này sẽ còi cọc, vỏ mềm yếu, cuối cùng là không sống được hoặc suy thoái giống nòi. Đặc biệt là những sinh vật có xương sống, nếu xương sống bị mềm, yếu thì không thể phát triển được.Khi nguồn nước thải mỏ chứa axit đổ ra biển cũng sẽ làm thay đổi điều kiện sinh thái. Không chỉ gây ra những bệnh như loãng xương, mà còn làm thay đổi cả giới hạn sinh thái của một số nhóm loài sinh vật biển chịu được độ muối, độ pH trong ngưỡng nhất định. Lý thuyết là như thế…
Nếu nhìn rộng ra, biển bị ô nhiễm axit và các bụi than sẽ làm giảm sút khả năng quang hợp, làm sụt giảm nguồn lợi hải sản nói riêng và sinh vật biển nói chung. Từ đó tác động trực tiếp tới sản xuất của người dân, sâu xa hơn là đời sống xã hội bởi đây vốn là một chuỗi liên hoàn.
Với những vùng không có giá trị kinh tế, không phải vùng nhạy cảm, ít bị tổn thương, không có giá trị bảo tồn hay văn hóa hay kinh tế như ao tù nước đọng thì việc san lấp trở thành bình thường. Tuy nhiên, để tránh những chất phân hủy từ phế thải cả vật cứng và nước thải ra môi trường biển, cần xây dựng những công trình ngăn đắp ngay từ dưới sâu. Việc này nhằm tránh việc thẩm thấu nước thải mỏ ra biển hay những khu biển xung quanh. Còn nếu, những dự án gần biển, thì không được để những chất này tràn ra biển vì sẽ làm thay đổi điều kiện sinh thái biển, gây hủy hoại môi trường như đã nói trên.
Nếu sử dụng đất đá thải mỏ đúng giải pháp kỹ thuật, có thể biến chất thải thành tài nguyên.
Trong Dự thảo luật cũng có quy định đề cập nhiều đến câu chuyện về sử dụng, áp dụng công nghệ tiên tiến trong khai thác khoáng sản: (Điều 4. Chính sách của Nhà nước về địa chất, khoáng sản: Nhà nước đầu tư và tổ chức thực hiện điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản theo chiến lược, quy hoạch về địa chất, khoáng sản; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển công nghệ trong công tác điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản. Điểm d khoản 2 Điều 5 về Nguyên tắc hoạt động địa chất, khoáng sản: Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản; Điểm b khoản 2 Điều 10 về Trách nhiệm bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản của tổ chức, cá nhân: Khi khai thác khoáng sản phải ưu tiênáp dụng công nghệ tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa các loại khoáng sản được phép khai thác; nếu phát hiện khoáng sản mới phải báo cáo ngay cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép).
Vậy, công nghệ khai thác tiên tiến trong việc khai thác, chế biến than để xử lý triệt để thu hồi nên chăng cần được quy định cụ thể trong dự thảo luật hoặc các văn bản dưới luật để tránh tình trạng tài nguyên thiên nhiên bị thất thoát gây lãng phí.
4- Ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành, Chuyên gia về chính sách công, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Môi trường và Xã hội:
Đất đá thải mỏ là một loại khoáng sản thứ cấp và phải được quản lý theo quy định của Luật Khoáng sản, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Khoáng sản 2010: "Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ". Như vậy, dù đất đá thải mỏ không chứa hàm lượng khoáng chất đủ để khai thác, chế biến (ví dụ như đá thải mỏ than có nhiệt trị thấp), nhưng khi ở dạng khoáng vật bãi thải của mỏ, nó vẫn được xem là một loại khoáng sản (tương tự như khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đất san lấp, cát sỏi lòng sông...) và được quản lý, cấp phép khai thác, sử dụng theo quy định của Luật Khoáng sản.
Thứ hai, theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường 2020: "Chất thải đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quản lý như sản phẩm, hàng hóa và được phép sử dụng trực tiếp làm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu cho hoạt động sản xuất".Quy định này của Luật Bảo vệ môi trường tiếp tục khẳng định nguyên tắc quản lý đất đá thải mỏ được thực hiện theo quy định của Luật Khoáng sản (khi nó được sử dụng trực tiếp làm vật liệu cho hoạt động san lấp).
Như vậy, quy định của Luật Khoáng sản và Luật Bảo vệ môi trường hiện hành đều xác định đất đá thải mỏ là khoáng sản, được quản lý, khai thác theo quy định của Luật Khoáng sản. Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, "tài nguyên khoáng sản" và "các tài nguyên khác do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật" là tài sản công. Khoản 3 Điều 6 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 cũng quy định "tài nguyên phải được kiểm kê, thống kê về hiện vật, ghi nhận thông tin phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản; được quản lý, bảo vệ, khai thác theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đúng pháp luật"; do đó cơ quan nhà nước cũng không thể né tránh việc khảo sát, đánh giá trữ lượng (hay lấy lý do giảm thiểu thủ tục hành chính được).
Theo quy định tại Điều 4 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm: "Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật"; "Tài sản là quyền khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản". Do đó, việc cấp quyền khai thác đất đá thải mỏ là khoáng sản để làm vật liệu san lấp mặt bằng cần tổ chức theo hình thức đấu giá.Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều loại khoáng vật tương tự như đất đá thải mỏ, là sản phẩm tận thu từ hoạt động kinh tế, xã hội khác cũng đều được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Khoáng sản.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy, chính sách về thuế và các khoản phải nộp từ việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp mặt bằng được áp dụng như trường hợp cấp phép khai thác khoáng sản.
Trong đó, ngoài các khoản thuế phải nộp như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thì các nghĩa vụ tài chính khác như tiền cấp quyền khai thác (điểm a, khoản 2 điều 55; Điều 76, Điều 77 Luật Khoáng sản 2010), thuế tài nguyên (khoản 1 Điều 76 Luật Khoáng sản 2010, Điều 2 Luật Thuế tài nguyên 2010, Điều 2 Nghị định 50/2010/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư 152/2015/TT-BTC), phí bảo vệ môi trường (Điều 6 Nghị định 27/2023/NĐ-CP quy định về mức phí bảo vệ môi trường với khai thác khoáng sản), tiền thuê đất (điểm đ khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2013)...Tuy nhiên, do đất đá thải mỏ là tài nguyên thứ phát, nên một số nghĩa vụ tài chính sẽ khác so với trường hợp cấp phép khai thác khoáng sản chính như: (1) không phải nộp tiền ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường và (2) chi phí trồng rừng thay thế (các nghĩa vụ tài chính này đã thực hiện khi cấp quyền khai thác khoáng sản chính).
Tại Mục 3 Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản tại các Điều 113,114,115 quy định rõ về việc giá tính tiền cấp quyền khai thác, phương thức thu nộp và sử dụng:
Điều 113. Giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
- Giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là giá của một đơn vị trữ lượng khoáng sản, đơn vị tính là đồng/đơn vị trữ lượng.
- Giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định trên cơ sở giá tính thuế tài nguyên theo quy định của pháp luật về thuế tài nguyên tại thời điểm phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
- Chính phủ quy định phương pháp quy đổi giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản từ giá tính thuế tài nguyên.
Điều 114. Phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
- Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu một lần hoặc nhiều lần căn cứ theo thời gian cấp phép khai thác khoáng sản và được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế và quy định của Luật này.
- Chính phủ quy định chi tiết phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Điều 115. Quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
- 1. Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thực hiện nộp 70% cho ngân sách trung ương, 30% cho ngân sách địa phương, đối với giấy phép do Trung ương cấp; 100% cho ngân sách địa phương, đối với giấy phép do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp.
- Việc tổ chức xác định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản do ngân sách nhà nước đảm bảo và được bố trí trong phạm vi dự toán chi ngân sách giao cho cơ quan tài nguyên và môi trường theo phân cấp được quy định tại Luật Ngân sách nhà nước.
- 3. Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, xác định bằng tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải nộp phân bổ cho số năm khai thác. Điều kiện xác định khoản chi được trừ theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
5-Tiến sĩ Lưu Bình Nhưỡng - Phó Trưởng ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tôi có nhận được đơn phản ánh của người dân, cử tri tỉnh Quảng Ninh thể hiện những lo lắng liên quan đến việc các doanh nghiệp dùng đất, đá thải mỏ để san lấp các dự án, công trình ở ven biển, trong đó có khu vực Vịnh Bái Tử Long. Người dân gửi các hình ảnh làm chứng cứ và nêu rõ các địa điểm xảy ra việc dùng đất, đá thải mỏ để san lấp dự án. Về vấn đề này, tôi cũng đã đề nghị các cơ quan báo chí vào để xem xét, xác minh những thông tin phản ánh của người dân có đúng không. Nếu những phản ánh, lo ngại này là đúng, báo chí phải ý kiến đến các cơ quan có thẩm quyền tỉnh Quảng Ninh xem xét để trả lời người dân. Trong trường hợp tỉnh Quảng Ninh không xem xét, không có câu trả lời thỏa đáng, cần thiết chúng ta có thể kiến nghị nghị lên Thủ tướng Chính phủ vào cuộc và có chỉ đạo cụ thể. Thậm chí, các cơ quan hữu quan cần tiến hành một cuộc thanh tra việc dùng đất, đá thải san lấp các dự án ở Quảng Ninh nói chung, Vịnh Bái Tử Long, Vịnh Hạ Long nói riêng.
Vịnh Bái Tử Long, Vịnh Hạ Long còn liên quan đến vấn đề bảo tồn, du lịch. Mới đây, vịnh Hạ Long vừa được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trong khi đó, Vịnh Bái Tử Long cũng ghi dấu nền văn hóa Hạ Long từ hàng nghìn năm trước. Tôi đặt vấn đề, liệu chúng ta san lấp dự án bằng đất đá thải mỏ như thế có ảnh hưởng đến việc thế giới công nhận Vịnh Hạ Long không, có ảnh hưởng đến việc tham quan du lịch của các du khách trong nước và quốc tế đối với hai vịnh này không. Đây là vấn đề cần phải xem xét. Không chỉ các cơ quan về môi trường, tôi nghĩ cần thiết có sự vào cuộc của Bộ Văn hóa Thể thao vào Du lịch.
Nhìn sâu hơn một chút, chúng ta nên xem xét việc quy hoạch, quá trình kêu gọi đầu tư ở Quảng Ninh trong việc xây dựng các dự án ven biển. Trong đó, có việc dùng đất, đá thải mỏ để san lấp ở các dự án ven biển. Cần làm rõ lại, các loại đất đá nào thì được dùng để san nền, san lấp dự án ở biển. Địa điểm nào được phép san lấp, san lấp bằng vật liệu gì chứ không thể san lấp một cách tùy tiện. Hoặc, những dự án được quy hoạch ở ven biển có thích hợp không nhìn cả dưới góc độ cảnh quan và môi trường.
Tôi cho rằng, những nơi có chủ trương đổ đất, đá thải xuống để san lấp cần phải đánh giá lại. Việc này cần có sự đánh giá một cách cẩn trọng từ các cơ quan chức năng và lắng nghe những tham vấn chuyên sâu của các nhà khoa học. Chúng ta cân đối giữa lợi ích và thiệt hại từ việc này và có đánh giá tác động môi trường một cách kỹ lưỡng nhất, chính xác nhất.
6-TS. Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:
Hoàng Dương Tùng nói: Không thể phủ nhận giá trị của đất đá thải mỏ, đặc biệt là trong công tác san lấp mặt bằng, Nếu bỏ đất đá thải mỏ đi hoặc để không thì rất lãng phí. Tuy nhiên, việc Quảng Ninh dùng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp, lấn biển phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, không phải ai đổ cũng được và đổ chỗ nào cũng được. Có thể coi đất đá thải mỏ là một dạng tài nguyên, do đó cần được theo dõi, giám sát, quản lý một cách chặt chẽ.Trước khi sử dụng đất đá thải mỏ cần phân tích xem có những thành phần nào ở trong đó? Nó có chứa những thành phần gây ô nhiễm môi trường hay không? Nguồn gốc đất đá thải mỏ ở đâu? Nó được sản sinh ra trong giai đoạn nào của quá trình khai thác? Có thể sử dụng ở địa điểm nào, không được sử dụng ở địa điểm nào? Phương thức vận chuyển ra sao, phải tuân thủ những điều kiện gì? Tất cả phải rất cụ thể.
Từ những vấn đề trên, TS. Hoàng Dương Tùng cho rằng, trách nhiệm của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương là thực hiện khảo sát, đánh giá cụ thể đối với từng trường hợp, thậm chí là lập hội đồng khoa học nếu cần, để chứng minh việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp là an toàn và hiệu quả. Tất cả số liệu, cơ sở khoa học phải được công khai để người dân nắm bắt được.
Nhìn nhận vấn đề ở một khía cạnh khác, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam lưu ý, trước khi cho phép sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp cần phải tính hết sức kỹ lưỡng việc giám sát/chế tài thế nào để tránh thất thoát, lợi dụng, gây ô nhiễm (giám sát tại mỏ, giám sát quãng đường vận chuyển, giám sát nơi đổ). Hiện nay có nhiều biện pháp kỹ thuật hỗ trợ thực hiện công tác giám sát, quản lý. Nếu công khai các kết quả giám sát thì sẽ rất khó để làm bậy. Theo TS. Hoàng Dương Tùng, việc người dân và cử tri tỉnh Quảng Ninh bày tỏ sự lo lắng là đúng. Điều này thể hiện quyền giám sát của người dân đối với những trường hợp có nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
7-PGS.TS Nguyễn Phương, Bộ môn Quản lý Tài nguyên và Môi trường (Đại học Mỏ - Địa chất):
PGS.TS Nguyễn Phương khẳng định, chủ trương lấy đất đá thải mỏ để san lấp mặt bằng của tỉnh Quảng Ninh là rất tốt nếu xét về khía cạnh kinh tế. Việc này sẽ hạn chế được diện tích dùng để đổ thải. Cái tốt thứ 2 là địa phương sẽ giảm được diện tích cần khai thác để làm vật liệu xây dựng dùng trong san lấp dự án.Trên thế giới, hầu hết các dự án mỏ tại các quốc gia đều tái sử dụng đất đá thải mỏ. Điều này được khẳng định ngay trong quá trình thăm dò, đó là giá trị của mỏ sẽ nâng cao nếu có thể tái sử dụng đất đá thải. Nhưng về nguyên tắc chung, khi tái sử dụng chất thải mỏ vẫn phải đánh giá lại thực trạng, hiệu quả cũng như các tác động tới môi trường.
Theo PGS.TS Nguyễn Phương, từ trước năm 1990, trong quá trình khai thác, những vỉa than mỏng, than xấu thường bị doanh nghiệp xúc bỏ đổ luôn ra bãi thải. Chính vì vậy, những bãi thải trong giai đoạn này còn chứa rất nhiều than.Giai đoạn sau, công nghệ và quy trình khai thác tốt hơn, tuy nhiên trong các bãi thải vẫn còn lẫn than dù phần trăm ít hơn.Việc lẫn than trong chất thải mỏ là chuyện đương nhiên, chỉ là ít hay nhiều mà thôi. Với những mỏ than khai thác những năm 1990, than bị bỏ đi rất nhiều, vừa lãng phí tài nguyên, đồng thời gây ra các hệ lụy ô nhiễm môi trường. Khi lấy chất thải mỏ làm vật liệu san lấp, bắt buộc doanh nghiệp phải có các nghiên cứu về chỉ tiêu như độ nén chặt, có chứa các nguyên tố độc hại như chì, kẽm, asen, sunfua, pirit… hay không? Đây đều là những chất làm gây ô nhiễm môi trường nếu tồn dư trong chất thải mỏ. Để làm việc này, địa phương phải tham vấn chuyên gia, cơ quan chức năng tiến hành thăm dò bãi thải công nghiệp. Một là để đánh giá, xác định lại các vật chất lẫn trong chất thải mỏ. Đồng thời, đánh giá lại khả năng hiệu quả nếu sử dụng chất thải mỏ trong lĩnh vực có nhu cầu như san lấp mặt bằng làm dự án.
PGS.TS Nguyễn Phương thông tin thêm, giai đoạn sau này, tại một số mỏ, khi phê duyệt trữ lượng khoáng sản chính, các doanh nghiệp đã tiến hành đánh giá chất lượng chất thải để xem xét khả năng tái sử dụng. Tại tỉnh Quảng Ninh, hầu như chưa doanh nghiệp nào tiến hành những bước này. Chính vì vậy, muốn sử dụng chất thải mỏ, bắt buộc phải tiến hành thăm dò, đưa ra các số liệu chỉ tiêu cụ thể. Trong đó, doanh nghiệp buộc phải làm rõ 3 tiêu chí sau: Một là xác định khối lượng chất thải trong phạm vi khu vực được phép khai thác, bao gồm khối lượng đất đá đã bóc và tập kết tại bãi thải; khối lượng đất đá thải khi tiếp tục khai thác theo Giấy phép khai thác khoáng sản. Hai là, phải làm rõ thành phần vật chất, thành phần hóa học, tính cơ lý, mục đích, nhu cầu sử dụng của đất đá thải mỏ. Ba là, chứng minh tại thời điểm hiện tại, việc khai thác, sử dụng đất đá thải mỏ này có hiệu quả kinh tế.
PGS.TS Nguyễn Phương khẳng định, việc phát hiện những mẫu đất đá thải mỏ có chứa tới hơn 17,3% than là quá lớn. Với lượng than tồn dư nhiều như vậy, nếu đem san lấp làm dự án ven biển chắc chắn sẽ gây ô nhiễm. Ngay lúc này, tỉnh Quảng Ninh cần kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các dự án dùng chất thải mỏ san lấp ven vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Phải ngăn chặn quá trình ô nhiễm ngay từ đầu, nếu như xảy ra ô nhiễm thì rất nguy hiểm.Cụ thể, tỉnh Quảng Ninh phải tiến hành quan trắc mức độ ô nhiễm toàn bộ các dự án. Qua đó đánh giá việc có hay không than ngấm xuống nước rồi đổ ra biển. Trong diện tích đã san lấp có bị tồn dư các kim loại nặng hay không. Nếu phát hiện ra nguồn nguy hại, phải tiến hành ngay việc ngăn chặn ô nhiễm.
PGS.TS Nguyễn Phương đề xuất, với những dự án ven biển sử dụng chất thải mỏ có nguy cơ ô nhiễm, buộc phải xử lý bằng cách xây tường bao ngăn chặn dòng axit thải mỏ trước khi thẩm thấu ra biển. Tuy nhiên, với những bãi tắm nhân tạo sử dụng chất thải mỏ, PGS.TS Nguyễn Phương đánh giá, không thể sử dụng phương pháp kỹ thuật này. Bởi ngay khi chất thải mỏ được đổ xuống lấn biển, nước biển, nước mưa đã cuốn trôi, phong hóa, hòa tan với nhau tạo thành dòng axit mỏ ngấm thẳng xuống biển. Nếu như với một dự án làm nhà, công trình lấn biển dùng chất thải mỏ thì có thể kè bao ngoài để ngăn chặn. Nhưng nếu tỉnh Quảng Ninh cho dùng chất thải mỏ để làm bãi biển thì chịu rồi, không xử lý được. Tỉnh Quảng Ninh cần dừng ngay việc dùng chất thải mỏ để san lấp làm bãi tắm nhân tạo. Bởi càng đổ nhiều, tích lũy càng lớn, nguy cơ gây ô nhiễm càng nhiều, vô cùng khó xử lý. PGS.TS Nguyễn Phương chia sẻ, hệ lụy trước mắt là gây ô nhiễm môi trường, khách du lịch sẽ quay lưng, thương hiệu du lịch hay di sản của tỉnh Quảng Ninh chắc chắn bị ảnh hưởng không nhỏ.Cách duy nhất để đối phó với nguy cơ ô nhiễm môi trường, đó là phải nạo vét toàn bộ lượng than, bùn đã hòa cùng nước biển tại các bãi tắm. Sau đó dùng vật liệu thông thường san lấp, hồi phục môi trường để hạn chế nguy cơ ô nhiễm.
Quay trở lại câu chuyện Luật Khoáng sản 2010, PGS.TS Nguyễn Phương cho biết, quy định phân cấp là tỉnh được phép quản lý, sử dụng bãi thải mỏ nhưng với điều kiện đó là vật liệu xây dựng thông thường. Còn nếu bãi thải mỏ được ghi nhận còn chứa nhiều khoáng sản, bao gồm cả than, thì muốn sử dụng vẫn phải báo cáo, xin phép, phân loại tài nguyên.
Đặc biệt, với những bãi thải còn chứa nhiều than, bắt buộc địa phương phải khoanh vùng, tiến hành phân loại tận thu chứ không cấp phép vận chuyển, san lấp bừa bãi. Chỉ khi chất thải mỏ đó đáp ứng đúng tiêu chuẩn của vật liệu xây dựng, doanh nghiệp mới được phép dùng để san lấp dự án.Theo PGS.TS Nguyễn Phương, khi có ý kiến hay số liệu nghiên cứu như trên của các chuyên gia, nhà khoa học, tỉnh Quảng Ninh buộc phải tiến hành quan trắc và báo cáo. Tỉnh buộc phải tiến hành quan trắc lại để đánh giá mức độ ô nhiễm nguồn đất, nước xem có hay không? Mức độ ra làm sao? So sánh chất lượng nguồn đất, nước trước và sau khi tiến hành đổ thải. Từ đó, tỉnh mới có số liệu, cơ sở để báo cáo bộ, ngành và trả lời các chuyên gia, nhà khoa học.
Như vậy:
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát của các chuyên gia thuộc Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam; tổng hợp, tham vấn các ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học khác, chúng tôi cho rằng, đối với trường hợp sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu xây dựng san lấp tại Quảng Ninh theo hình thức “ủy quyền cấp phép” từ Bộ Tài nguyên và Môi trường cho tỉnh Quảng Ninh và một số vấn đề liên quan đến một số luật khác. Thực tế dùng đất, đá thải mỏ để san lấp các dự án cũng đang khiến các nhà khoa học và người dân lo lắng, hoài nghi. Vì vậy, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam kiến nghị, vấn đề này trong Dự thảo luật Khoáng sản và Đia chất cần phải tính đến và làm rõ để tránh việc sử dụng không đúng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường; gây lãng phí, thất thoát tài nguyên thiên nhiên.
PGS. TS Lưu Đức Hải
Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (đã ký
Từ giữa tháng 9/2023, Tạp chí Kinh tế Môi trường đã đăng tải tuyến bài viết "Dùng đất đá thải mỏ san lấp dự án - Góc nhìn từ góp ý Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản". Tuyến bài viết này nhận được rất nhiều sự quan tâm của dư luận.
Cụ thể, trước đó, Tòa soạn tiếp nhận nhiều ý kiến của cử tri và nhân dân tỉnh Quảng Ninh lo lắng về vấn đề tác động đến môi trường xoay quanh hiện tượng sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp một số dự án, công trình ven biển. Trong tuyến bài viết này, Tạp chí Kinh tế Môi trường đã đưa ra những chia sẻ, kiến nghị, đề xuất và một số giải pháp của các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế môi trường để sử dụng hiệu quả đất đá thải mỏ nhằm phát triển Quảng Ninh một cách bền vững như mong muốn của Đảng và Chính phủ đang thực hiện trên khắp đất nước.
Và đặc biệt hơn, tuyến bài này cũng nhằm mục đích góp ý một phần nào về Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản đang được Bộ Tài Nguyên và Môi trường lấy ý kiến rộng rãi.
Xuân Hòa