Tài nguyên nước: Nguồn nước ngầm Việt Nam đang bị ô nhiễm
Nguồn nước dưới đất của Việt Nam đã và đang đối mặt với vấn đề xâm nhập mặn trên diện rộng, ô nhiễm vi sinh và ô nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng, do khoan nước dưới đất thiếu quy hoạch và không có kế hoạch bảo vệ nguồn nước.
Nguồn nước sạch cần được bảo vệ
Nước ngầm là một hợp phần quan trọng của tài nguyên nước, là nguồn cung cấp nước rất quan trọng cho sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp. Hiện trữ lượng nước ngầm của nước ta cung cấp từ 35 - 50% tổng lượng nước cấp sinh hoạt cho các đô thị trên toàn quốc. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước quý giá này đang bị ô nhiễm.
Tổng trữ lượng khai thác nước ngầm trên toàn quốc đạt gần 30 triệu m3. Tổng công suất của hơn 300 nhà máy khai thác nguồn nước này vào khoảng 1,47 triệu m3/ngày. Nhưng trên thực tế các nhà máy chỉ khai thác được 60 - 70% so với công suất thiết kế.
Vấn đề đáng báo động là nguồn nước ngầm của Việt Nam đã và đang đối mặt với vấn đề xâm nhập mặn trên diện rộng, ô nhiễm vi sinh và ô nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng, do khoan nước ngầm thiếu quy hoạch và không có kế hoạch bảo vệ nguồn nước.
Tuy nhiên, hoạt động phát triển các ngành Công nghiệp và nông nghiệp ở nước ta lớn và chính là nguyên nhân gây nên chất ô nhiễm trong nước ngầm. Nhiều nơi đã phát hiện dấu hiệu ô nhiễm Coliform vượt quy chuẩn cho phép từ hàng trăm đến hàng nghìn lần. Trong nước ngầm ở nhiều khu vực cũng đã thấy dấu hiệu ô nhiễm phốt phát (P-PO4), mức độ ô nhiễm có xu hướng tăng theo thời gian.
Tại Hà Nội, số giếng khoan có hàm lượng P-PO4 cao hơn mức cho phép (0,4mg/l) chiếm tới 71%. Còn tại khu vực Hà Giang - Tuyên Quang, hàm lượng sắt ở một số nơi cao vượt mức cho phép Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) thường trên 1mg/l, có nơi đạt đến trên 15-20mg/l, tập trung chủ yếu quanh các mỏ khai thác sunphua.
Bên cạnh đó, việc khai thác nước quá mức ở tầng holoxen cũng làm cho hàm lượng asen trong nước ngầm tăng lên rõ rệt, vượt mức giới hạn cho phép 10mg/l. Đặc biệt, vùng ô nhiễm asen phân bố gần như trùng với diện tích phân bố của vùng có hàm lượng amoni cao. Hiện tượng này thường thấy ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Việc đưa quy định phân vùng xả thải vào thực tế sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động thu hút và kêu gọi đầu tư đối với những doanh nghiệp mới. Với những doanh nghiệp đã tồn tại và đang hoạt động cũng gây ra không ít xáo trộn.
Theo nhiều ý kiến của các cơ quan chức năng, đây là vấn đề đáng báo động cần thiết để góp phần quản lý và bảo vệ nguồn nước ngọt, sạch hiện tại. Viện Môi trường và Tài nguyên cho biết, kết quả nghiên cứu từ 2019 đến nay cho thấy, toàn TP.HCM không còn khu vực nào có nước ngọt sạch.
Tất cả hệ thống kênh rạch nội thành chỉ còn có tác dụng tiêu thoát nước. Nồng độ các chất COD, BOD5, DO, kim loại… luôn ở mức vượt tiêu chuẩn loại B từ vài lần đến vài chục lần, thậm chí có những kênh rạch chất lượng nước còn rơi vào loại C. Đặc biệt, nồng độ vi sinh trong nước của hệ thống kênh rạch nội thành luôn ở mức chết. Nồng độ các chất ô nhiễm vào mùa khô cao hơn mùa mưa, ngoại trừ hai con kênh vừa được cải tạo là kênh Thị Nghè và Tân Hóa - Lò Gốm đã ít nhiều được phục hồi.
Chất lượng nước tại tuyến sông Sài Gòn - một trong những tuyến sông cung cấp nước chính phục vụ cấp nước sinh hoạt và hoạt động kinh tế của thành phố và tỉnh Bình Dương đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước sông được sử dụng để cung cấp cho Nhà máy nước Tân Hiệp với công suất 300.000m3/ngày và Nhà máy nước Thủ Dầu Một với công suất 30.000m3/ngày đều không đạt quy chuẩn cột A.
Cần phân vùng xả thải
Nguy hại nhất là lượng nước thải từ các bãi rác, khu công nghiệp, giao thông thủy và sự gia tăng lan truyền ô nhiễm liên tỉnh. Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM khẳng định, để có thể cải thiện cũng như bảo vệ nguồn nước cho tương lai, ngoài việc gia tăng thanh kiểm tra, xử phạt những đơn vị đang gây ô nhiễm cho môi trường, nhất thiết phải có quy hoạch vùng xả thải.
Việc quy hoạch vùng cũng giúp các doanh nghiệp mới đầu tư có sự tính toán hợp lý hơn giữa vị trí xây dựng nhà máy đầu tư, công nghệ và loại hình sản xuất cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu mức độ xả thải của các cơ quan quản lý. Mặt khác, với những doanh nghiệp đang tồn tại hiện hữu cũng có sự cải thiện cho phù hợp với quy định mới.
GS.TS Lê Thanh Hải Bí thư Đảng uỷ - Viện trưởng Viện Môi trường và Tài Nguyên cho biết thêm, qua kết quả nghiên cứu chất lượng nước cũng như nhu cầu sử dụng nguồn nước trên hệ thống kênh rạch và sông thuộc địa bàn thành phố cho thấy, cần thiết phải xác lập vùng tiếp nhận nước thải là loại A nếu nguồn nước đó hiện đang khai thác và sử dụng cho mục đích sinh hoạt, bất chấp quy mô khai thác mang tính tập trung hay phục vụ đơn lẻ cho từng hộ gia đình.
Ngoài ra, do đặc thù chế độ thủy văn trên sông, kênh rạch ở thành phố là chế độ bán nhật triều, mỗi ngày có 2 lần triều lên và xuống, để đảm bảo an toàn cho vùng nước loại A cần tính đến thêm vùng đệm dài khoảng 10 - 15km tính từ điểm tiếp giáp với vùng nước cấp phục vụ sinh hoạt trở xuống phía hạ lưu. Theo đó, nguồn nước thải ra vùng đệm này cũng phải loại A để tránh tình trạng thủy triều đẩy nước kém chất lượng lên vùng nước cấp phục vụ sinh hoạt.
Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM cho rằng: "Việc phân vùng xả thải tuy ít nhiều tạo ra sự xáo trộn trong hoạt động đầu tư, sản xuất của thành phố, song đây là giải pháp cần thiết để tạo cơ sở rõ ràng hơn cho các cơ quan chức năng quản lý xả thải trên địa bàn. Quan trọng hơn, hiện TP.HCM đã không còn vùng nước sạch nào. Nếu tình trạng trên không được khắc phục bằng cách quy định rõ loại nguồn thải được phép xả thải ở các vùng khác nhau thì đến bao giờ chúng ta mới có thể cải thiện và duy trì bảo vệ nguồn nước sạch?”
Minh Dương (T/h)