Giảm hệ lụy của thủy điện đến môi trường như thế nào?
Thủy điện là một trong những nguồn năng lượng quan trọng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các dự án thủy điện cũng đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và cuộc sống của con người.
Thủy điện giải quyết bài toán năng lượng cho mọi quốc gia
Thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo, sạch và rẻ hơn điện than và điện khí, được coi như là một chìa khóa mấu chốt cho động lực phát triển kinh tế quốc gia. Từ giữa thế kỷ thứ 19 và suốt thế kỷ 20 việc xây dựng các con đập chắn ngang sông từng được tiến hành ồ ạt ở phương Tây. Hơn nữa, khi còn chưa có những mạng lưới ắc-quy điện đủ mạnh thì những con đập chính là các “viên pin” khổng lồ, có thể được sử dụng để lưu trữ lượng điện tái tạo rất lớn.
Không phải gió hay ánh sáng mà chính nguồn nước mới tạo ra nguồn năng lượng tái tạo lớn nhất trong những năm gần đây.
Báo cáo về hiện trạng thủy điện thế giới năm 2020 của Hiệp hội Thủy điện Quốc tế (IHA), công suất lắp đặt của các nhà máy thủy điện trên thế giới năm 2019 đã đạt trên 1.300GW, sản sinh hơn 4.300TWh, qua đó đóng góp khoảng 15% sản lượng điện của thế giới và nhiều hơn sự đóng góp của tất cả các dạng năng lượng tái tạo khác kết hợp lại.
Do các đập thủy điện không sử dụng nhiên liệu hóa thạch (dầu mỏ, than đá, khí đốt tự nhiên...) nên chúng không làm phát thải khí CO2 trong quá trình sản xuất năng lượng và không phải phụ thuộc vào sự biến động giá của những nhiên liệu này.
Vì các lợi thế đó, thủy điện đã đóng vai trò then chốt cho động lực phát triển kinh tế của nhiều nước. Xét về tỉ lệ năng lượng thủy điện trên tổng sản lượng điện, Na Uy sản xuất 99% lượng điện của mình bằng sức nước, trong khi thủy điện ở Iceland đáp ứng tới 83% nhu cầu về điện của người dân. Con số này ở Canada là trên 70%, còn Áo sản xuất 67% lượng điện cả nước từ thủy điện. Uruguay đã đạt đến mức gần 100% là năng lượng tái tạo, phần lớn nhờ vào thủy điện.
Và những tác hại mà nó gây ra
Ngoài những lợi ích lớn về kinh tế, lịch sử phát triển thủy điện cũng đã ghi nhận nhiều thảm họa dẫn đến nhiều thiệt hại về người và tài. Có thể kể đến các vụ vỡ đập Gleno ở Valle di Scalve, Italy năm 1923; Malpasset ở Frejus, Pháp năm 1959; Bản Kiều ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc năm 1975; Kelly Barnes ở bang Georgia, Mỹ năm 1977; Machchu-2 tại Morbi, Ấn Độ năm 1979...
Bên cạnh đó, các nhà môi trường đã bày tỏ lo ngại rằng các dự án nhà máy thủy điện có thể phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái xung quanh, sự phát điện của nhà máy điện cũng có thể ảnh hưởng đến môi trường của dòng sông bên dưới, việc tái định cư cho người dân bản địa sống trong vùng hồ chứa còn nhiều khó khăn, công tác trữ nước và xả lũ có thể chưa hợp lý khiến ngập lụt hoặc hạn hán ở vùng hạ du, các dự án thủy điện ảnh hưởng đáng kể đến sinh kế của người dân...
Tính trên quy mô toàn cầu, trong thế kỷ qua có chừng 472 triệu người dân bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thủy điện. Những cộng đồng ở hạ lưu sống nhờ các con sông bị di dời, nguồn sống và nguồn thức ăn của họ bị phá hủy. Những mất mát về văn hóa thì không thể tính hết. Ví dụ, ngay sau khi xây con đập Tucurui ở Brazil trên sông Amazon, lượng cá đánh bắt giảm 60%; 100.000 dân ở khu vực hạ lưu bỗng trở nên nghèo đói do mất nguồn cá, đất canh tác bị ngập.
Bên cạnh đó, vòng đời một con đập lại rất ngắn, ví dụ đập ở Brazil chỉ hữu dụng chừng 30 năm. Sau đó phải tốn rất nhiều tiền để nâng cấp bằng không các vật liệu xây dựng xuống cấp, chất bồi lắng tính tụ sẽ làm đập hư hại, không còn hoạt động ở mức thiết kế ban đầu. Chi phí tháo dỡ một đập thủy điện cũng rất lớn và thường không được tính vào chi phí đầu tư. Một điều các nhà đầu tư cũng ít tính tới là do phá rừng làm thủy điện nên đất lở, bồi lắng dưới chân đập nhanh hơn tính toán ban đầu - dẫn tới vòng đời các con đập này càng ngắn hơn.
Những điều này đã đặt ra yêu cầu cho các nước trong giải quyết, quản lý vấn đề về quy hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành thủy điện một cách an toàn, có lợi và bền vững.
Loại bỏ thủy điện để cứu môi trường
Trước thực trạng trên, nhiều nước ở châu Âu và Mỹ đã quyết định loại bỏ các đập ngăn sông quá lỗi thời, gây hại cho môi trường và ít mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng.
Tổ chức Các dòng sông Mỹ thống kê, trong vòng 30 năm qua, nước này đã phá dỡ tổng cộng gần 1.300 đập thủy điện, trong đó chỉ tính riêng năm 2017 đã loại bỏ 86 công trình kiểu này.
Xu hướng cũng phát triển mạnh ở châu Âu sau khi Liên minh châu Âu (EU) năm 2000 thông qua một chính sách mới về nguồn nước. Chính sách này đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể về môi trường, đồng thời yêu cầu các nước thành viên phải đưa các sông, hồ và vùng nước trong lãnh thổ của mình về “tình trạng tốt” vào năm 2027.
Theo tổ chức Wetlands, hơn 60% các sông của châu lục hiện cần được cải thiện dòng chảy và hệ sinh thái để đáp ứng các tiêu chuẩn trên. Các chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận và các nhóm cộng đồng đang cùng chung tay xúc tiến các kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu này.
“Khôi phục 25.000km sông chảy tự do là một bước đột phá, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phá dỡ các đập nhằm hồi sinh cho các dòng sông đang chết dần ở châu Âu. Với phong trào đang phát triển mạnh khắp châu Âu, chúng tôi tin tưởng rằng mục tiêu sẽ sớm được hoàn thành, mang lại lợi ích to lớn cho chính các dòng sông, con người và thiên nhiên", bà Eva Hernandez, Trưởng nhóm Sáng kiến sông ngòi châu Âu thuộc Quỹ Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF) nhận định.
Theo tổ chức Dam Removal Europe, trong khoảng 20 năm qua, gần 5.000 đập ngăn sông trên khắp châu Âu đã bị loại bỏ. Trong đó, việc phá 2 đập Vezins và Le Roche Qui Boit chắn ngang sông Selune ở Pháp năm 2018 là dự án phá dỡ lớn nhất ở châu lục cho đến thời điểm này. Những nỗ lực được tin đã giúp giải cứu các con sông; trả lại dòng chảy tự nhiên; cải thiện chất lượng nước; khôi phục môi trường sống cho các loài động vật nước ngọt, nhất là những loài quen với cuộc sống di cư như cá hồi; thúc đẩy đa dạng sinh học và tạo ra những cơ hội phát triển mới cho người dân địa phương.
Các nhà quản lý thống nhất rằng, không cần thiết phải đánh đổi quá nhiều về vấn đề môi trường, hệ sinh thái và đời sống dân cư bản địa để phát triển thủy điện. Hội đồng Năng lượng Thế giới (WEC) khuyến nghị, với các đập thủy điện đang tiếp tục vận hành, chính quyền và các nhà quản lý cần phải giám sát chặt chẽ, bảo dưỡng thường xuyên, sửa chữa kịp thời khi xảy ra sự cố, đảm bảo quy trình tích nước, xả lũ an toàn cũng như có kịch bản ứng phó trong trường hợp thiên tai, khẩn cấp.
Với các dự án đang và sẽ triển khai, các bên liên quan cần tính toán kỹ lợi - hại, lựa chọn thiết kế tối ưu và đảm bảo cơ chế chia sẻ lợi ích giữa nhà đầu tư và các cộng đồng địa phương.
Hoài Thu